✨Mặt trận Tây Nguyên và Bắc Bình Định năm 1972

Mặt trận Tây Nguyên và Bắc Bình Định năm 1972

Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972 là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972.

Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên

Giai đoạn tạo thế

nhỏ|phải|Cố Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, năm 1972 là Thiếu tướng, Tư lệnh mặt trận B3

Đầu tháng 2 năm 1972, tướng Ngô Du, tư lệnh Vùng chiến thuật II, điều 2 trung đoàn và sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) từ Bình Định lên Tân Cảnh. Đầu tháng 3, ngay sát trước chiến dịch, đại tá Lê Đức Đạt được bổ nhiệm thay tướng Lê Ngọc Triển làm tư lệnh sư đoàn 22, đại tá Lý Tòng Bá thay tướng Võ Văn Cảnh làm tư lệnh sư đoàn 23.. Từ ngày 15/3 đến ngày 25/3, tiểu đoàn công binh thuộc sư đoàn 320A Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam làm giả hai con đường cơ giới phía Tây Bắc thị xã Kon Tum. QLVNCH điều lữ đoàn dù 2 ra phá đường. Sư 320A dùng trung đoàn 52 chặn đánh nhưng không truy kích. Ngày 23 tháng 3, QLVNCH điều tiếp liên đoàn 22 biệt động quân ra phá đường, cũng bị trung đoàn 52 chặn đánh.. Ngày 26 tháng 3, trung đoàn 95, tiểu đoàn 6 (bảo vệ 559) và đại đội 1 (địa phương) cắt đường 14 ở Chư Thoi, Tân Phú (nam Kon Tum).

Ngày 30 tháng 3, 2 trung đoàn (1 và 3) của sư 320A (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía Tây sông Poko do 3 tiểu đoàn biệt động quân QLVNCH đóng giữ. Tướng Ngô Du điều 2 tiểu đoàn của lữ đoàn dù 2 từ Tân Cảnh về các cứ điểm phía Tây sông Poko để tăng cường phòng thủ, điều 1 trung đoàn của sư đoàn 2 đánh ra tăng phái cho 2 đại đội quân địa phương chốt giữ Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng, lập ba căn cứ hỏa lực "Rocket Ridge", "Charlie" và Delta" được trang bị pháo Bofors và đại liên Vulcan để chặn sư 320A, chỉ để lại 1 trung đoàn bộ binh, sư bộ sư 22 và tiểu đoàn 11 giữ Tân Cảnh. Cố vấn John Paul Vann gọi thêm máy bay cường kích Hoa Kỳ từ Thái Lan đến ném bom xung quanh các cứ điểm này. Tuy nhiên, do bị lộ trận địa để không quân Mỹ và QLVNCH oanh tạc dễ dàng và công tác chỉ huy, phối hợp hiệp đồng pháo binh - bộ binh - phòng không chưa chặt chẽ, thông tin liên lạc kém, trung đoàn 52 (sư 320A) bị tổn thất nhiều. QLVNCH cho rằng "kế hoạch này phối trí tốt đẹp lúc đầu".

Đoàn 559 vận chuyển hàng chuẩn bị cho chiến dịch

Sau khi bổ sung quân số và điều chỉnh lại đội hình, ngày 31 tháng 3, Trung đoàn 52 tiếp tục tấn công, chiếm các cứ điểm Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng, cô lập 3 cứ điểm A, B, C ("Rocket Ridge", "Charlie" và Delta") ở tây sông Poko.. Từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 11 tháng 4, trung đoàn 52 (sư 320A) tấn công cứ điểm "Charlie" (1049). Trung đoàn 3 tấn công cứ điểm "Rocket Ridge" (1015). Vào lúc 22h30 ngày 11 tháng 4, trung đoàn 52 (sư 320A) chiếm được căn cứ "Charlie". Tiểu đoàn dù 11 (QLVNCH) bị thiệt hại phải rút về Võ Định; tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Bảo bị tử thương. Cố vấn John Paul Vann yêu cầu sư đoàn 22 QLVNCH phải dụ sư đoàn 320 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào thật sâu để dùng B-52 tiêu diệt. Ngày 14 tháng 4, 9 máy bay B-52 ném bom hủy diệt căn cứ "Charlie" trong khi nhiều thương binh QLVNCH còn đang ở đó và các tử sĩ QLVNCH chưa được chôn cất. Trung đoàn 52 cũng bị thiệt hại do không kịp rút ra phòng tránh..

Ngày 15 tháng 4, trung đoàn 3 Sư 320A đánh chiếm cứ điểm "Rocket Ridge" (1015), đánh tan tiểu đoàn dù 11 (lữ dù 3), bắn rơi 9 máy bay trực thăng. Cùng ngày, trung đoàn 1 (sư 320A) chiếm cứ điểm "Delta" (1338) và phục kích toán quân còn lại của tiểu đoàn dù 11 chạy về đây. Ngày 19 tháng 4, trung đoàn 24 (độc lập) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công tuyến Plei Cần - Đắc Moi, tiêu diệt 287 quân trong số 350 quân của tiểu đoàn 1, trung đoàn 42 QLVNCH đóng tại đây.

Ở giữa mặt trận, ngày 24 tháng 3, trung đoàn 28 cắt đứt đường 14 ở Diên Bình, bao vây Võ Định, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 23 thủy quân lục chiến quân lực VNCH. Ngày 7 tháng 4, trung đoàn 28 pháo kích Võ Định phá hủy 9 pháo, 20 xe vận tải và 3 kho đạn của QLVNCH ở Kong Trang Lang Loi. Ngày 10 tháng 4, các lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chuẩn bị tấn công Đắc Tô - Tân Cảnh đã tập kết xong ở Đông Bắc Tân Cảnh trong khi tướng Ngô Du vẫn cho rằng sư 320(A) sẽ đánh Kontum từ phía Tây.

Ở nam Kon Tum, trung đoàn 95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức 7 chốt hỏa lực cắt đường 14 ở Chư Thoi. Tướng Ngô Du điều các trung đoàn 45 và 52 (sư 23) và 2 chi đoàn thiết giáp ra giải tỏa nhưng lại bị giam chân ở đây.

Các cuộc chiến đấu Đắc Tô - Tân Cảnh

nhỏ|phải|Trung tướng [[Nguyễn Văn Toàn. Năm 1972 là thiếu tướng, tư lệnh Quân đoàn 2 QLVNCH (từ ngày 2/5/1972)|256x256px]] Lực lượng chủ công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công Đắc Tô - Tân Cảnh gồm trung đoàn 66, tiểu đoàn 37 đặc công, đại đội 7 xe tăng, đại đội 53 cao xạ tự hành "ZSU-57-2".(Trinh sát đường không của QLVNCH cho rằng "ZSU-57-2" là xe tăng), đại đội 29 tên lửa chống tăng B-72, 4 đại đội cối 81 và 120. Trung đoàn 675 pháo binh chiến dịch có nhiệm vụ pháo kích mở màn và yểm hộ tấn công. Bộ tư lệnh Mặt trận B3 sử dụng trung đoàn 141 để tấn công quận lỵ Đắc Tô, trung đoàn 1 tấn công Đắc Tô 2. Trung đoàn 40 pháo binh yểm hộ hướng này.

Cứ điểm Đắc Tô (bắc Tân Cảnh) gồm quận lỵ Đắc Tô, chốt Ngọc Tu, có các tiểu đoàn 4, 8 (trung đoàn 47), tiểu đoàn 9 (lữ đoàn dù 3) và 1 chi đội xe tăng bảo vệ. Cứ điểm Tân Cảnh của QLVNCH có trung đoàn 42 (sư 22) gồm 3 tiểu đoàn 1, 2, 4; thiết đoàn 14 (20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113); 1 tiểu đoàn pháo (4 khẩu 155 mm, 6 khẩu 105 mm); 1 đại đội vệ binh; 1 đại đội trinh sát; 1 đại đội công binh, bố trí thành 13 khu phòng thủ.

Sáng 24 tháng 4, tiểu đoàn 8, trung đoàn 47, sư đoàn 22 QLVNCH bất ngờ chạm súng với các đơn vị đi đầu của trung đoàn 141 sư đoàn 2 liên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang chiếm lĩnh vị trí xuất phát. Trung đoàn 675 pháo binh (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) được lệnh khai hỏa, pháo kích tất cả các vị trí của cụm phòng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh bằng pháo 122 mm và hỏa tiễn H12. Đại tá Lê Đức Đạt điều 10 xe tăng ra phản kích thì bị tên lửa AT-3 Sagger (B-72) bắn cháy 8 chiếc, đứt xích 2 chiếc (trước ngày này, QLVNCH ở Kon tum chưa biết đến B-72 mà cho rằng đây chỉ là loại đạn súng chống tăng B-41).

Lúc 10h30 sáng ngày 24 tháng 3, sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 22 QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn trúng, 20 sĩ quan QLVNCH chết và bị thương, các phương tiện thông tin liên lạc bị phá hủy. Tân Cảnh mất liên lạc với Kon Tum và không thể chỉ huy được các đơn vị thuộc quyền. Các chi đội thiết giáp 1 và 2 (thiết đoàn 14 QLVNCH) đang phòng ngự Bến Hét xin đại tá Đạt cho rút về phòng ngự Tân Cảnh nhưng liên lạc bị đứt, hai đơn vị này tự rút về Tân Cảnh. Chi đội 1 bị tiểu đoàn 7, trung đoàn 24 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích ở cầu Đắc Mốt, 5 xe tăng M-41 bị phá hỏng, chi đội trưởng (thiếu úy Nguyễn Thi) và các binh sĩ dưới quyền bị bắt. Chiều 24 tháng 3, thêm 12 xe tăng - thiết giáp của QLVNCH bị diệt. trong đó có 2 chiếc M-41 bị 2 chiếc T-54 bắn hạ tại Đắc Tô. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mất 3 xe tăng PT-76 ở Đắc B'Rung do trúng tên lửa TOW từ máy bay AC-130. Tuy nhiên, 15 chiếc T-54 và PT-76 còn lại vẫn tiếp tục tấn công. Lúc 17 giờ chiều 24 tháng 4, Sư đoàn 2 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chiếm được cứ điểm Đắc Moi và quận lỵ Đắc Tô (Đắc Tô I). Các trung đoàn 41, 47, 2 chi đội thiết giáp (1 và 14), một tiểu đoàn của trung đoàn 42, tiểu đoàn 9 (lữ dù 3), 2 tiểu đoàn pháo binh QLVNCH mất sức chiến đấu và tan rã. Sư đoàn phó Vi Văn Bình và khoảng 1.000 binh sĩ QLVNCH bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt sống. Cùng ngày, trung đoàn đặc công 400 (chủ lực khu 5) phối hợp với trung đoàn 28 tấn công Võ Định, buộc sở chỉ huy lữ dù 3 (QLVNCH) phải rút về Kon Tum.

Tướng Ngô Du và ban tham mưu quân đoàn 2 không thể tăng viện cho Đắc Tô - Tân Cảnh vì đường 14 đã bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cắt đức ở Diên Bình. Căn cứ Võ Định, tiền đồn phía Bắc của Kon Tum đã bị mất. Lúc này, sư đoàn 22 QLVNCH chỉ còn lại trung đoàn 42 (thiếu) đang phòng thủ Bình Định, Quân đoàn 2 (QLVNCH) chỉ còn sư đoàn 23 để phòng thủ Kon Tum. Ngày 27 tháng 4, Đại tá Lý Tòng Bá tư lệnh sư 23 được chỉ định làm tư lệnh mặt trận Kon Tum. Tướng Ngô Du bị lên cơn đau tim cấp, không chỉ huy được. Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên đề nghị một số Trung tướng ở Sài Gòn lên thay nhưng không ai chịu lên vì tình thế quá xấu. Cuối cùng tổng thống Thiệu chọn thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn. Tướng Toàn hứa với Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên sẽ tử thủ tại Kon Tum. John Paul Vann cử Rhotenberry là cố vấn trưởng cho sư đoàn 23. Để chống lại xe tăng T-54 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Lý Tòng Bá lệnh cho các tiểu đoàn lập các tổ chống tăng và tập bắn súng M72 LAW vào các xe tăng M-41 đã bị cháy. Ngày 30 tháng 4, tướng Toàn tăng viện cho sư 23 thêm 1 trung đoàn bộ binh, 1 liên đoàn biệt động quân, 20 xe tăng M-48 và nhiều phương tiện, đạn dược... Cố vấn John Paul Vann hứa cấp đủ 100 box B-52 (300 lần chiếc) yểm hộ từ trên không..

Các cuộc chiến đấu trong thị xã Kon Tum

Chiến sự tại thị xã Kon Tum 1972

Từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 10 tháng 5, các trung đoàn 28 (độc lập), 1 và 3 (sư đoàn 320A) đánh thiệt hại nặng liên đoàn 6 biệt động quân QLVNCH ở căn cứ Biển Hồ, hình thành thế vây ép cụm phòng ngự Kon Tum từ hướng Đông Bắc. Trung đoàn 95 (độc lập) chốt chặn đường 14 ở Chư Thoi, đánh tan 4 đại đội bộ binh QLVNCH thuộc các trung đoàn 45 và 53 nhưng không chặn được các trung đoàn 44, 45 và 53 (sư 23 QLVNCH) tăng viện cho Kon Tum. Trung đoàn 52 (320A) đánh chiếm cứ điểm K'Leng, diệt tiểu đoàn 62 biệt động quân QLVNCH, áp sát phía Tây Kon Tum. Riêng Trung đoàn 66 do chủ quan, hiệp đồng lỏng lẻo, cán bộ không sâu sát, báo cáo sai tình hình... nên khi đánh tiểu khu Plei Cần bị thiệt hại nặng, phải rút ra củng cố.

Từ ngày 3 đến ngày 13 tháng 5, trung đoàn 54 pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam liên tục bắn phá thị xã Kon Tum bằng pháo 130 mm, 122 mm và hỏa tiễn H12. Mục tiêu đánh nhiều nhất là sân bay Phượng Hoàng (TX Kon Tum), gây khó khăn cho tiếp vận hậu cần của QLVNCH. Ngày 13 tháng 5, mạng lưới do thám điện đài (SIGINT) của Mỹ chặn bắt được bức điện của Bộ Tư lệnh B3:

Cũng trong ngày 13 tháng 5, tướng Nguyễn Văn Toàn bố trí lại lực lượng phòng thủ Kon Tum với 3 trung đoàn 44, 45 và 53 được tăng viện nhưng cũng bị Sái Gòn rút lữ đoàn dù ném ra mặt trận Trị Thiên-Huế. Đại tá Lý Tòng Bá được lệnh đưa trung đoàn 53 giữ hướng bắc, đông và nam dọc sông Đắc B'La; trung đoàn 44 giữ ngã ba Trung Tín-Đường Ngang ở Tây Bắc. Trung đoàn 45 giữ căn cứ Lôi Hổ làm lực lượng dự bị. Thiết đoàn 14 mới được phục hồi làm lực lượng cơ động tăng cường cho hướng bị uy hiếp mạnh nhất. Số quân còn lại của liên đoàn 6 biệt động quân phòng thủ vòng trong thị xã. Tướng Toàn và đại tá Bá lệnh cho các đơn vị phòng thủ không được ra khỏi hầm khi đối phương nổ súng tấn công để B-52 ném bom rải thảm vào đội hình của họ.

17h ngày 13 tháng 5, 75 lần chiếc B-52 và hơn 100 lần chiếc cường kích A-37 Dragonfly và AD-6 của sư đoàn 6 không quân QLVNCH ném hơn 3.000 quả bom từ 50 kg đến 250 kg vào khu vực Bắc Kon Tum, đánh đòn phản chuẩn bị từ trên không vào đội hình sư đoàn 320 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Không quân VNCH bị mất một chiếc AD-6.

Sư đoàn 22 QLVNCH tổ chức Chiến đoàn 40 gồm Trung đoàn 40 và 2 chi đoàn thiết giáp tiến về giải toả ngã ba Tân Thành. Liên đoàn 48 bảo an (QLVNCH) có động chiếm lĩnh cứ điểm Hòn Bồ (nơi rước đây, quân của Sư đoàn Không Kỵ số 1 của Hoa Kỳ đóng giữ). Ngày 11 tháng 4, Trung đoàn 12 (Sư đoàn 3 Sao Vàng) hoạt động độc lập ở hướng An Khê đã cắt đường 19 ở Đông và Tây An Khê, cô lập Lữ đoàn Mãnh Hổ của quân Hàn Quốc ở An Khê đồng thời cắt đứt giao thông giữa Tây nguyên và ven biển qua đường 19.

Ngày 14 tháng 4, 2 tiểu đoàn đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích sở chỉ huy Sư đoàn 22 ở Phù Mỹ. Đêm 14, hai tiểu đoàn này tiếp tục tập kích các căn cứ Tam Quan và Đệ Đức (sở chỉ huy trung đoàn 40). Ngày 15 tháng 4, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 3 Sao Vàng) tấn công Hòn Bồ, cô lập Chiến đoàn 40. Chiều 15 tháng 4, chiến đoàn nhận được điện quay về Phù Mỹ và điện đài Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng bắt được bức điện này. Sư đoàn 3 Sao Vàng chia quân vừa tổng công kích Hòn Bồ, vừa phục kích QLVNCH đang trên đường rút lui, Chiến đoàn 40 bị thiệt hại đáng kể, hơn 400 binh sĩ chết, thêm 17 xe thiết giáp bị bắn cháy.

Từ ngày 18 đến ngày 19 tháng 4, Trung đoàn 21 của Sư đoàn 3 tiếp tục đánh chiếm các vị trí Đồi 75, Truông Sỏi, Núi Mộ, cầu Giáo Ba, Núi Bụt, Du Tự, Thanh Tú,. Sư đoàn 22 QLVNCH không còn bàn đạp nào phía Bắc Phù Mỹ để phản kích. Sáng 19 tháng 4, Trung đoàn 40 QLVNCH rút khỏi Hoài Ân sau khi phá 5 kho đạn vì không thể đem theo. Sư đoàn 6 không quân QLVNCH đưa 12 máy bay A-37 yểm hộ cho Trung đoàn 40 rút quân nhưng vẫn không ngăn được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam truy kích đơn vị này. Trưa 19 tháng 4, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn toàn làm chủ quận lỵ Hoài Ân.

5 giờ sáng ngày 25 tháng 4, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 21 (sư đoàn 3 Sao Vàng) được tăng cường Tiểu đoàn đặc công 40, 2 Đại đội đặc công 71 và 72 tấn công gần 20 chốt của QLVNCH từ Nam Bồng Sơn đến Đèo Nhông và vây lấn Tiểu khu Bình Dương. Sở chỉ huy Sư đoàn 22 QLVNCH điều Trung đoàn 41 và Địa phương quân Hoài Nhơn đánh mở vây cho Tiểu khu Bình Dương nhưng bị chặn lại ở Kim Sơn, Trung Lương và Phú Văn. Ngày 27 tháng 4, Tiểu khu Bình Dương di tản chiến thuật nhưng không thoát, 480 binh sĩ VNCH bị quân của các Tiểu đoàn 2 và 3 (Trung đoàn 2) vây và bắt sống tại cánh đồng ấp Vĩnh Bình.

Ngày 29 tháng 4, các đơn vị của Sư đoàn 3 Sao Vàng đồn loạt tấn công cứ điểm Tam Quan và quận lỵ Bồng Sơn (huyện Hoài Nhơn). Đến 11 giờ trưa, quận lỵ Bồng Sơn lọt vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Do bị bao vây và chủ lực QLVNCH đang phải giải quyết mặt trận Kon Tum nên không thể ứng cứu cho Bồng Sơn.

Sáng ngày 1 tháng 5, đến lượt căn cứ Đệ Đức bị vây đánh. 1.200 quân nhân QLVNCH đóng tại đây bị cắt làm 2 cụm, cụm bên trong hon 500 quân, cụm bên ngoài hơn 600 quân. Ngày 2 tháng 5, cụm quân phía ngoài rút lui về Tam Kỳ, Quảng Nam. Cụm quân phía trong căn cứ bị tràn ngập. Căn cứ Đệ Đức và thị trấn Tam Quan lọt vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Các trận đánh ở Đường 19

Năm 1972, Sư đoàn 3 có 2 trung đoàn gồm trung đoàn 2 hoạt động tại các huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát và trung đoàn bộ binh 12 chuyển vào phía Nam tỉnh Bình Định, tập trung chủ yếu đường 19. Trung đoàn 12 có nhiệm vụ chốt chặn đèo An Khê nhằm cắt đứt giao thông tiếp tế của quân VNCH trên đường 19 từ đồng bằng miền Trung lên cao nguyên, kìm giữ sư đoàn Mãnh Hổ của Hàn Quốc, tạo thuận lợi cho chiến dịch Bắc Tây Nguyên.

Trung đoàn 12 Quân Giải phóng thiết lập nhiều chốt dọc theo đường 19 với mục đích cắt đường tiếp tế huyết mạch này. Cụm chốt chính (nằm ở phía Đông đường 19) bao gồm điểm cao 638 – chốt Cây Rui, điểm cao 384, cống Hang Dơi do tiểu đoàn 6 bộ binh (3 đại đội 61-62-63 chốt giữ). Cụm chốt phụ (nằm ở phía Tây đường 19): chốt giữ từ suối Văn Ngày đến suối Vôi do 2 đại đội công binh chốt giữ.

Điểm quan trọng là đại đội đặc công quân khu phải đánh chiếm được mỏm phía Bắc của điểm cao 638, nơi có 1 đại đội thuộc sư đoàn Mãnh Hổ đang chốt giữ để đại đội 61 triển khai lực lượng phòng thủ. 2h sáng ngày 10/4, khi đại đội đặc công tiếp cận mỏm phía Bắc của chốt Cây Rui đã bị lộ ngay tại lớp hàng rào kẽm gai đầu tiên. Súng cối của bộ binh Hàn Quốc phối hợp với 4 trực thăng vũ trang đã bắn thiệt hại nặng đại đội đặc công. Theo như tài liệu của sư đoàn Mãnh Hổ, họ thu nhặt được 18 thi thể lính đặc công. Điều này khiến Đại đội 61 bị lộ, phải gấp rút cơ động đến mỏm phía Nam điểm cao 638 để bố trí trận địa, vừa khống chế đường 19, vừa áp chế mỏm phía Bắc của điểm cao 384 (cách đó 200m), lập trận địa phòng ngự dưới trận mua đạn pháo.

Lúc này, Đại đội 63 cùng các đơn vị công binh phá sập một phần cống hang Dơi rồi chốt chặn tại đây. Lực lượng tại chỗ của Hàn Quốc và VNCH phản ứng tức thì khi điều Chiến đoàn 14 vùng 2 chiến thuật gồm 5 xe tăng và 2 đại đội bộ binh lao lên, đặt được 3 cụm pháo 105mm đặt ở An Khê, An Tân với 24 khẩu pháo thay nhau bắn mãnh liệt vào trận địa phòng ngự chốt chặn của trung đoàn 12. Trung đoàn 12 Quân Giải Phóng đã điều thêm tiểu đoàn 5, dự bị của trung đoàn để tăng cường cho trận đèo An Khê.

Với ưu thế vượt trội về quân số và hỏa lực, ban đầu phía Hàn Quốc và VNCH muốn tổ chức đánh nhanh, tấn công toàn bộ cụm chốt, nhưng liên tục bị quân Giải phóng đẩy lùi. Vì vậy, các đơn vị giải tỏa phải chuyển sang nhổ từng chốt một. Đầu tiên là chốt Cây Rui (điểm cao 638), điểm cao 384 và cuối cùng là cống Hang Dơi. Quân Hàn Quóc gọi máy bay, pháo binh bắn phá dữ dội, rồi bộ binh Hàn Quốc xung phong lên chốt. Quân Giải phóng quyết bám trụ, dùng vũ khí bộ binh đẩy lực lượng bộ binh Hàn Quốc xuống sườn đồi.

Đêm 20-4-1972, sau 10 ngày cố thủ thành công trước đối phương mạnh gấp nhiều lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp gửi điện thẳng cho trung đoàn bộ binh 12, khen ngợi: “Các đồng chí đã đứng vững như bàn thạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giai đoạn đầu cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung…”.

Tại cao điểm 638 sau nhiều ngày giao tranh đẫm máu, đến ngày 23/4/1972, quân Hàn Quốc phải dùng vũ khí hóa học nhằm tiêu diệt đại đội 61. Đến ngày 24/4, đại đội 61 chỉ còn lại 5 người có thể chiến đấu, sau đó được tiểu đoàn 5 lên tăng viện, tiếp tục chiến đấu đến đêm 24/4 thì có lệnh rút lui.

Tại cao điểm 384, ngày 18/4, lính Hàn Quốc đã dùng đến 2 tiểu đoàn, từ phía bắc và phía đông ào ạt tấn công lên cao điểm. Đại đội 62 bám trụ, đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, toàn đại đội chỉ có một người sống sót.

Tại cống Hang Dơi, trận chiến diễn ra ngay trên mặt đường. Từ ngày 10 đến 24/4, cuộc chiến đấu tại cống Hang Dơi đã diễn ra vô cùng ác liệt, đại đội 63 thương vong 80% quân số.

Sau 14 ngày giao tranh ác liệt, do 2 tiểu đoàn đã bị thương vong quá lớn, trung đoàn bộ binh 12 được lệnh chấm dứt đợt 1, rút khỏi các chốt để chuyển sang chiến thuật “phục kích vận động”. Sư đoàn Mãnh Hổ của Hàn Quốc sau 14 ngày mới thông được đường 19 vào ngày 24/4/1972. Quân Hàn Quốc bị thiệt hại nặng, nhiều xe tăng - thiết giáp bị phá hủy. Sau trận đánh quân Hàn Quốc đã lập bia tưởng niệm và đến nay bia đó vẫn còn. Đầu năm 2004, thiếu tướng Lê Huẩn, nguyên chính ủy trung đoàn 12 kể lại: Có một đoàn làm phim tài liệu của Hàn Quốc sang Việt Nam tìm hiểu trận đánh, họ gọi đây là “các trận đánh ở Cây Rui” và nói rằng trong lịch sử quân đội Hàn Quốc có ghi “Đây là trận đánh đẫm máu nhất của lính Hàn Quốc ở Việt Nam, trung đoàn 24 của sư đoàn Mãnh Hổ có 1.150 binh sĩ chết, bị thương, bị bắt...”

Ngày 25/6 tại phía Tây đèo An Khê, trung đoàn 12 đánh phục kích vận động, phá hủy đoàn xe vận tải 35 chiếc (có 10 xe tăng - xe bọc thép, diệt và bắt 318 lính), bắn rơi 3 máy bay.

Kết thúc

Từ tháng 5 năm 1972 đến thời điểm ký Hiệp định Paris, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại bắc Bình Định không đủ sức tiếp tục tấn công. QLVNCH cũng không đủ lực lượng để giành lại các địa bàn đã mất. Hai bên giữ thế cầm cự giằng co và còn tiếp tục giao chiến nhiều trận nhỏ đến tháng 3 năm 1975.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. ## Mặt trận chính Bắc
**Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam** (tiếng Anh: _Alliance of National Democratic and Peaceful Forces of Vietnam_, **ANDPFVN**) là một tổ chức được thành lập sau sự
**Sư đoàn 10 bộ binh** là một sư đoàn bộ binh thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Hầu hết tân binh hàng năm của sư đoàn là cư dân của 2
**Vây lấn** là chiến thuật tấn công quân đối phương đang trong tình trạng phòng ngự bằng cách bao vây hệ thống công sự của đối phương, lấn chiếm từng bước, làm suy yếu quân
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
Các hướng tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ **Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972** là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến
**Mặt trận giải phóng động vật** (tiếng Anh: **Animal Liberation Front**) viết tắt là **ALF**, là một nhóm hoạt động quốc tế không người lãnh đạo của phong trào giải phóng động vật, tham gia
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Trận Lộc Ninh** là trận đánh lớn nhất trong ba trận đánh mở màn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) trong Chiến dịch Đông Nam Bộ 1972 (còn gọi là Chiến dịch
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
Đại tá **Nguyễn Mạnh Quân** (1923-1988) là một sĩ quan chỉ huy cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những chỉ huy chiến trường quan trọng trong suốt thời
**Trần Đại Quang** (12 tháng 10 năm 1956 – 21 tháng 9 năm 2018 Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương và Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên từ 2011 đến 2016. Trần Đại
**Trận An Lộc** là trận chiến tại An Lộc. Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong
**Nguyễn Khoa Nam** (23 tháng 9 năm 1927 – 1 tháng 5 năm 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất
Thượng tướng, Phó Giáo sư **Nguyễn Hữu An** (1926-1995) là một tướng lĩnh quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông tham gia Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Trận Kon Tum 1972** là trận đánh diễn ra tại Bắc Tây Nguyên trong năm 1972 giữa các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
**Văn phòng Trung ương Cục miền Nam** (VP.TWCMN 1961-1975) là cơ quan bảo đảm mọi hoạt động của Trung ương Cục miền Nam (TWCMN), được ra đời và kết thúc nhiệm vụ lịch sử cùng
**Sư đoàn 341** là một sư đoàn bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, còn có tên gọi **Sư đoàn Sông Lam**. Sư đoàn này đã tham gia Chiến tranh Việt Nam, và
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Sư đoàn 3** (hay **Sư đoàn Bộ binh 3**, **Sư đoàn Sao Vàng**) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. Tây Ninh nằm ở biên giới miền Tây Nam của Việt Nam, có chung đường biên giới quốc tế trên bộ
Các nước lớn Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc đều ủng hộ bên này hoặc bên kia trong Chiến tranh Việt Nam một cách riêng rẽ. Nhưng trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam,
**Bắc Ireland** (, ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở đông bắc của đảo Ireland, giáp với Cộng hòa Ireland ở phía nam và phía tây.
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Chiến dịch Đăk Tô**, thường được biết đến là trận **trận Đăk Tô - Tân Cảnh** là trận đánh mở màn cho Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 của Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Trần Thanh Phong** (1926–1972) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia được mở
**Địa điểm căn cứ Cục hậu cần Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1973–1975)** là một di tích quốc gia nằm cạnh hồ Cầu Trắng, ấp Hiệp Hoàn, xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh,
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Bình Nhưỡng** (, , , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nằm ở hai bên bờ sông Đại Đồng. Theo kết quả điều
phải|Các mặt trận (B) và quân khu (MR) của Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam (năm 1970) Trong chiến tranh Việt Nam, mặt trận (địa bàn quân sự) là hình thức bố trí binh
**Quốc hội Việt Nam khóa XIV** (nhiệm kỳ 2016-2021) là nhiệm kỳ thứ 14 của Quốc hội Việt Nam, được bầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 với 496 đại biểu. ## Kết quả
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại