✨Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972
Các hướng tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ
Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972 là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam năm 1972
Chiến trường chính miền Đông Nam Bộ
Giai đoạn I: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công
phải|nhỏ| Thượng tướng QĐNDVN [[Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn; 1919–1996), năm 1972 là Phó tư lệnh QGP miền Nam Việt Nam]]
Để chuẩn bị cho chiến dịch, quân Giải phóng huy động 3 sư đoàn quân chính quy (5, 7, 9), 5 trung đoàn bộ binh độc lập, trung đoàn đặc công 429, trung đoàn pháo phòng không 271, 2 trung đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn tăng thiết giáp, 20 tiểu đoàn và 63 đại đội quân địa phương. Về trang bị có 70 xe tăng thiết giáp (32 xe tăng T-54, 4 pháo cao xạ tự hành ZSU-57-2, 14 xe PT-76, 16 xe thiết giáp Type-63, 4 xe thiết giáp gắn pháo 23mm), về sau dùng thêm 6 xe chiến lợi phẩm (1 xe tăng M24, 1 xe tăng M41, 1 xe AMX-13, 1 xe thiết giáp M8, 2 xe thiết giáp M113)
Quyết định ngày 27/3/1972 của Bộ chính trị TƯ Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân ủy chuyển hướng mặt trận chính ra Trị Thiên đã làm tinh thần một số chỉ huy tại mặt trận Đông Nam Bộ chùng xuống. Thường trực quân ủy Miền phải giải thích, động viên. Mặc dù vẫn giữ ý đồ chiến dịch nhưng mặt trận Đông Nam Bộ sẽ nhận được các phương tiện chi viện tăng cường ít hơn và phải dựa vào sức mình là chính.
Ngày 25/3 QLVNCH mở chiến dịch Toàn thắng-72B (đợt 1) nhằm phá thế chuẩn bị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Swai Rien (Cam Pu Chia). Các sư đoàn 7, sư đoàn 9 hành quân từ Swai Rien (Cam Pu Chia) chỉ để một số đại đội ở lại chặn kích và cơ động chủ lực về quanh An Lộc nhưng tiếp cận chiến trường muộn. Đến ngày 1 tháng 4, sư đoàn 9 vẫn còn ở Đông Bắc Sài Gòn, Sư đoàn 7 vẫn còn ở bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông. Theo thượng tướng Hoàng Cầm, đây là một trong những nguyên nhân chính khiến Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không thực hiện được hoàn toàn kế hoạch hợp vây Lộc Ninh và chia cắt tuyến Lộc Ninh - An Lộc, để QLVNCH có thời gian tổ chức phòng thủ vững chắc ở An Lộc. Tuy tăng cường phòng thủ An Lộc nhưng Bộ tư lệnh vùng chiến thuật III (QLVNCH) vẫn coi hướng Tây Ninh - Xa Mát là hướng tấn công chính của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Họ điều động 7 chiến đoàn phòng thủ đường 22 đi Tây Ninh - Xa Mát, chỉ để 4 chiến đoàn giữ đường 13 tuyến Lộc Ninh - An Lộc.
4h ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 271 (C30B) có xe tăng chiến lợi phẩm yểm hộ triển khai tiến công vào tuyến phòng ngự của Trung đoàn 49 (QLVNCH) tại Xa Mát, Bàu Dung. 15h chiều ngày 4 tháng 4, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cứ điểm Xa Mát. 6h sáng ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 24 (C30B) tiến công căn cứ Tân Biên và chiếm được lúc 9 giờ sáng ngày 4 tháng 4. Phần lớn Trung đoàn 49 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 6 (Sư đoàn 25) bị tiêu diệt và bắt sống. Số còn lại nhờ sự yểm trợ của cụm pháo ở Tân Phong và Thiết đoàn 6 cùng với Thiết đoàn 5 lui về Thiện Ngôn và điện gọi sư đoàn 25 ở Tây Ninh chi viện. Liên đoàn biệt kích dù 81 điều 1 tiểu đoàn chặn cánh quân của Trung đoàn 271 ở Thiện Ngôn. Tại trận này, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mất toàn bộ 6 xe tăng - thiết giáp chiến lợi phẩm cùng các tổ lái. Phía QLVNCH mất 11 xe tăng M-41, 2 xe tăng M-48 và 25 xe bọc thép M-113, phần lớn do đạn chống tăng B-40 và B-41 tiêu diệt.
Ngày 8 tháng 4, Chiến đoàn 52 QLVNCH từ Bắc An Lộc định lên cứu viện cho Lộc Ninh nhưng đã bị 2 trung đoàn của F9 phản đột kích vào hai bên sườn, buộc phải rút về Cầu Cần Lê sau khi bị tổn thất 2 đại đội. Tiếp theo Lộc Ninh, chuỗi tiền đồn của QLVNCH tại các tỉnh Phước Long, Bình Long và Tây Ninh như Bố Đức, Ka Tum, Tống Lê Chân... phải "di tản chiến thuật". Trong cuộc hỏi cung ngay sau trận đánh, trung tá Nguyễn Đức Dương thừa nhận cả ông ta và đại tá Vĩnh đều coi hướng Bắc là hướng đột kích chủ yếu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nên để hai bên suờn bị yếu dẫn đến thất bại.
Đêm 12 rạng sáng ngày 13/4, sau pháo kích 30 phút, sư đoàn 9 (tăng cường) bắt đầu tấn công An Lộc.
Giai đoạn II: Quân lực Việt Nam Cộng hòa phá vây
Một xe tăng T-54 (trong vòng tròn) của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam] khi tấn công đơn độc vào thị xã An Lộc bị bắn hỏng bởi 1 chiếc AH-1 Cobra, (ảnh chụp từ máy bay).]]
Sau khi tăng phái Chiến đoàn 8 và tiểu đoàn 3 pháo binh cho An Lộc, đại tá Mạch Văn Trường (Trưởng phòng hành quân - quân đoàn II QLVNCH) truyền lệnh của tướng Nguyễn Văn Minh cho đại tá Lê Văn Hưng, chỉ huy phòng thủ An Lộc yêu cầu mở cuộc hành quân càn quét ra xung quanh thị xã để phá thế chuẩn bị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 9 tháng 4, QLVNCH đã phá cầu Cần Lê (bắc An Lộc). Ngày 10 tháng 4, đại tá Hưng tổ chức các cuộc hành quân của liên đoàn 8 biệt động quân ra phía Bắc và phía Đông An Lộc nhưng đều bị đẩy lùi. Cùng ngày 10 tháng 4, sư đoàn bộ binh 21, trung đoàn 15 (sư đoàn 9) và một tiểu đoàn của thiết đoàn xe tăng 2 (QLVNCH) cũng được điều về quanh An Lộc. Đại tá Lê Văn Hưng đưa bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 5 của mình lên tiểu khu quân sự Bình Long (An Lộc). Ngày 15/4, tướng Nguyễn Văn Minh cũng rời Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn III từ Biên Hoà lên Lai Khê.
Ngày 11 tháng 4, các tiền đồn Xa Trạch, Xa Cát, Xa Cam và Quản Lợi lần lượt bị liên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm. QLVNCH bị mất 23 khẩu pháo của tiểu đoàn pháo 52, 30 tăng, thiết giáp và hơn 600 quân. Do địa bàn nhỏ hẹp, đại tá Hưng phải cho tiểu đoàn 3 pháo binh (mới được tăng phái) bố trí trận địa ngay tại Công viên Tao Phùng. Các cụm pháo ở Lai Khê và Chơn Thành, không quân VNCH tại Biên Hoà (sư đoàn 3) và Tân Sơn Nhất (sư đoàn 5) được lệnh chi viện hoả lực tối đa cho An Lộc.
Ngày 12 tháng 4, các đơn vị đi đầu của F9 đã tiến đến đường Hùng Vương, đường Trần Hưng Đạo và công viên Tao Phùng trong thị xã nhưng bị hoả lực của QLVNCH từ các toà nhà cao tầng chặn lại. Do hiệp đồng binh chủng chưa thành thạo, 3 trong số 15 xe tăng T-54 và PT-76 tiến quá xa bộ binh yểm hộ đã bị bắn cháy, 4 chiếc khác bị pháo 40 mm và rốc két từ máy bay AC-130 đánh trúng nóc xe (chỗ hiểm yếu nhất của các xe tăng thời đó). Ngày 13 tháng 4, các đơn vị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp tục tấn công và chiếm dược 1/3 thị xã nhưng không còn lực lượng để tiếp tục phát triển. ném bom vào đội hình tấn công của [Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đánh cả vào những toà nhà cao tầng đã bị sư đoàn 9 chiếm giữ ở trung tâm thị xã An Lộc gây nhiều thương vong. Trung đoàn 6 (sư đoàn 5 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) phối thuộc cho cánh tấn công cũng bị hao hụt quân số do phi pháo đối phương.
Ngày 5 tháng 5, các đại diện Quân uỷ Trung ương, Quân uỷ Miền và Bộ tư lệnh B2 họp phân tích tình hình mặt trận. Các sư đoàn chủ lực của mặt trận đã bị căng ra 3 hướng. Lực lượng QLVNCH phòng thủ An Lộc đã được tăng cường, hình thành thế trận trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân đoàn III vẫn còn sư đoàn 18 nguyên vẹn đóng ở Thủ Dầu Một và nhiều thiết đoàn xe tăng chưa dùng đến. Lực lượng phòng không của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại mặt trận quá mỏng, không đủ ngăn chặn các đợt di chuyển quân bằng đường không của QLVNCH. Nhận thấy thế bất ngờ không còn, tương quan lực lượng trên chiến trường nghiêng về phía đối phương, đại diện Trung ương cục Phạm Hùng và đại diện Quân uỷ Trung ương Hoàng Văn Thái bàn với tư lệnh Trần Văn Trà việc thay đổi chiến thuật. Không tấn công đánh chiếm mà bao vây An Lộc nhằm giam chân ở đây càng nhiều đơn vị của QLVNCH càng tốt. Tướng Hoàng Văn Thái cũng truyền đạt ý kiến của Bộ Chính trị về việc đưa sư đoàn 5 luồn xuống Đồng bằng Sông Cửu Long để kéo căng lực lượng QLVNCH ra đồng thời phá kế hoạch bình định của VNCH.
Tư lệnh Trần Văn Trà cho rằng ông muốn chấp hành ý kiến của hai vị đại diện cấp trên nhưng vẫn giữ ý kiến đánh chiếm An Lộc. Ông cho rằng trong đợt đầu, không phải đối phương mạnh mà do các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp không tốt.Đến nay, họ đã dàn xong thế trận, An Lộc đã bị vây cả bốn hướng; cứ điểm (lâm thời) Đồi Gió có tác dụng chi phối thị xã đã bị sư đoàn 7 đánh chiếm; bên trong thị xã, sư đoàn 9 đã chiếm được 1/3 địa bàn phía Đông Bắc và Bắc. Cuối cùng, hai vị Phạm Hùng và Hoàng Văn Thái tạm thời đồng ý để Bộ tư lệnh B2 mở cuộc tấn công An Lộc đợt 2.
3h sáng ngày 11 tháng 5, F9 được tăng cường trung đoàn 174 (sư đoàn 5), có 36 khẩu pháo, cối, 54 pháo và súng cao xạ các loại, 25 xe tăng mở cuộc tấn công lần 2 vào An Lộc từ hướng Tây. Các đơn vị của E174 đã không bám sát yểm hộ xe tăng, để cho 18 trong tổng số 25 chiếc tham chiến bị bắn cháy ngay ở đợt tấn công đầu tiên. Mặc dù vậy, chủ lực của F9 vẫn phát triển tấn công, giành giật với QLVNCH từng góc phố, từng ngôi nhà nhưng do không được yểm hộ bằng hoả lực của tăng đã mất sức chiến đấu rất nhanh. Ngày 15 tháng 5, F9 chiếm được Ty Công chính, Ty Cảnh sát, Ty Chiêu hồi nhưng không còn lực lượng để phát triển.
Ở vòng ngoài, sư đoàn 21 QLVNCH điều các trung đoàn 31 và 32 phối hợp với trung đoàn 9 thiết giáp tấn công F7 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở cụm chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng. Ngày 12 tháng 5, Không lực Hoa Kỳ và Không lực VNCH xuất kích hơn 150 phi vụ, dùng bom khoan, bom phá đánh sập hầm hào của E165, tiểu đoàn 5 của trung đoàn này bị thương vong nặng. Chỉ huy sư đoàn phải điều E 209 lên thay thế. Bộ tư lệnh B2 đã không chiếm được An Lộc (Bình Long) ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của chiến dịch
Ngày 27 tháng 8, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điện cho tướng Minh: "Quãng đường An Lộc - Chơn Thành chưa giải toả được thì đường 13 lại bị cắt ở Bàu Bàng. Sư đoàn 18 chết cứng ở An Lộc, Sư đoàn 5 còn chưa được tái chỉnh trang. Lực lượng tổng trù bị còn phải tái chiếm tỏa Quảng Trị. Ông liệu mà đối phó".Ngày 28 tháng 8, bức điện của tướng Nguyễn Văn Minh gửi Lê Văn Tư ra lệnh đưa sư đoàn 25 rút khỏi về phía sau ứng cứu Lai khê bị trinh sát diện đài Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu được. Ngày 30 tháng 8, Tư lệnh mặt trận Hoàng Cầm và tư lệnh F7 Đàm Văn Nguỵ dùng toàn bộ sư đoàn tổ chức phục kích tại địa đoạn Bàu Bàng - Bầu Lồng. Sư đoàn 25 QLVNCH trên đường rút phải vừa đánh vừa lùi. Chiến đoàn 49 rút sau cùng bị thiệt hại 684 quân, mất 170 súng các loại. Kế hoạch giải toả đường 13 của tướng Nguyễn Văn Minh và tướng Lê Văn Tư phá sản.
Từ 15 tháng 9 đến cuối chiến dịch, Bộ Tư lệnh B2 còn sử dụng lực lượng của F7, E3 (F9), E209, E271 và các đại đội độc lập mở các cuộc tập kích vào Trảng Bàng, Bến Cát, Gò Dầu; đánh lui cuộc hành quân tấn công khu căn cứ Dương Minh Châu của F5 (mới phục hồi); phát triển đến Phú Hoà Đông, Củ Chi và Bắc Bình Dương. An Lộc vẫn bị vây lỏng cho đến ngày ký kết Hiệp định Paris.
Chiến trường phối hợp tại Khu 8
Ngày 2 tháng 6 năm 1972, sau khi đưa sư đoàn 5 và các trung đoàn bộ binh 24, 271 và 207 xuống Kiến Tường, Kiến Phong; tướng Hoàng Văn Thái thành lập bộ chỉ huy chiến dịch khu 8 do đích thân ông làm tư lệnh kiêm chính uỷ. 2 trợ thủ của ông là Đồng Văn Cống, Phó tư lệnh và Lê Văn Tưởng, phó chính uỷ. Mục tiêu của chiến dịch là mở thêm vùng giải phóng mới ở khu 8, phát triển thế da báo theo kế hoạch hậu chiến (do có Hiệp định Paris). Về sau Hoàng Văn Thái trở ra miền bắc.
Lực lượng QLVNCH ở 5 tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre có 7 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị thiết giáp, pháo tăng cường. Tuy nhiên, đây là địa bàn của Quân đoàn IV QLVNCH. Các lực lượng của sư đoàn 7, sư đoàn 9 đóng tại Mỹ Tho và Cần Thơ có thể phản ứng bất cứ lúc nào. Sư đoàn 4 không quân và Giang đoàn Cửu Long (QLVNCH) cũng có các căn cứ chính tại Cần Thơ và Mỹ Tho.
Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 6, các trung đoàn 174 và Q765 tấn công tiểu khu quân sự Long Khốt và pháo kích chi khu quân sự Măng Đa của QLVNCH bên bờ Đông sông Vàm Cỏ Tây thuộc địa bàn tỉnh Kiến Phong. Thám báo của tiểu khu Long Khốt phát hiện được Quân Giải phóng m tiếp cận và gọi pháo binh từ Măng Đa tập kích và không đoàn 4 chi viện, xóa sổ đại đội 1, tiểu đoàn 6 và làm tổn thất một phần E174 của F5 QĐNDVN. Tư lệnh sư đoàn Bùi Thanh Vân phải ra lệnh rút trung đoàn ra củng cố lại. Sáng 11 tháng 6, sư đoàn tiếp tục tấn công Long Khốt lần 2. Chỉ huy chi khu Măng Đa QLVNCH điều 4 đại đội thám báo và 1 chi đoàn thiết giáp tập kích vào sau lưng. Ngày 14 tháng 6, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải lui quân, không chiếm được Long Khốt.
Đầu tháng 7, các trung đoàn 6 và Q765 vẫn còn phải mở hành lang dọc theo kênh Nguyễn Văn Tiếp và 62 để tiếp cận Kiến Tường, Mỹ Tho. Tư lệnh Bùi Thanh Vân ra lệnh để lại tất cả các trang bị nặng tại hậu cứ sư đoàn ở Chi Phú, chuyển thành khinh binh cho phù hợp với vận động chiến. Ngày 22 tháng 7, Tư lệnh quân đoàn 4, tướng Ngyễn Khoa Nam điều động sư đoàn 7 phối hợp với 1 sư đoàn quân Lon Nol định hợp vây chủ lực F5 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Kongpong Tabek trên đất Campuchia, nhưng thất bại. Ngày 1 tháng 8, 2 trung đoàn chủ lực F5 bất ngờ đánh chiếm các đồn Thầy Yến, Phật Đá, kênh Nguyễn Văn Tiếp và khu trù mật Thiên Hộ. Đồng thời sư đoàn này kéo về E174 tiêu diệt lữ đoàn 66 của quân Lon Nol ở phum Krang Swai, phá vỡ kế hoạch hợp vây của QLVNCH và quân Lon Nol. Đến cuối tháng 8, 2 trung đoàn của F5 đã đứng chân được ở Cái Bè, đánh chiếm 16 đồn bốt dọc kênh La Răng và đường 22, phát triển theo trục quốc lộ 4.
Thấy nguy cơ Mỹ Tho bị đe doạ, quốc lộ 4 nối với Sài Gòn có thể bị cắt đứt, tướng Nguyễn Khoa Nam điều động 2 tiểu đoàn bảo an 502 và 503, tiểu đoàn biệt động quân 41 và trung đoàn 12 thiết giáp tấn công đơn vị còn lại của F5; mặt khác giải toả khu vực Thạnh Trị - Ba Thu - Tà Lu; đưa trung đoàn 10 (sư đoàn 7 QLVNCH) phối hợp với 2 thiết đoàn tập kích khu vực Cái Bè. Bị đánh áp đảo, trung đoàn Q765 của F5 tổn thất nặng và rút lui.
Ngày 10-9-1972, sân bay Biên Hòa bị tấn công bởi Tiểu đoàn 1 đặc công U1 Biên Hòa với Đoàn đặc công 113. Sân bay bị tê liệt suốt 7 ngày, khiến các chuyến bay chi viện cho mặt trận Bình Long, Phước Long của QLVNCH phải hủy bỏ. Quân Giải phóng tuyên bố phá hủy hoặc đánh hỏng 175 máy bay. Tài liệu Mỹ thì thống kê riêng trực thăng UH-1 đã bị hư hại 30 chiếc, chưa tính số UH-1 bị phá hủy và thiệt hại của các loại máy bay khác.
Tháng 10 năm 1972, Q765 sau khi phục hồi đã mở cộc tấn công chiếm lĩnh khu vực phía Nam quốc lộ 4, các trung đoàn 2 và 3 chiếm lại được khu vực kênh Nguyễn Văn Tiếp, Cái Bè, Thạnh Trị, Ba Thu, kênh La Răng, kênh Bằng Lăng, kênh 28... Hai bên giữ thế cài răng lược đến ngày ký Hiệp định Paris.