✨Tổng tấn công Mùa xuân 1918

Tổng tấn công Mùa xuân 1918

Cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918, còn gọi là Các cuộc Tổng tấn công Ludendorff, Trận chiến của Hoàng đế (Kaiserschlacht) hay Chiến dịch Ludendorff là tên chiến dịch Tổng tấn công lớn của Lục quân Đế quốc Đức vào đầu năm 1918 nhằm kết thúc hoàn toàn cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất hoặc ít ra cũng có thể kết thúc cuộc chiến bằng 1 Hiệp ước có lợi cho phía Đức. Chiến dịch này do Thượng tướng Bộ binh (General der Infanterie) Erich Ludendorff đề xướng. Quân Đức tấn công khắp Mặt trận phía Tây để giành chiến thắng trước khi quân Mỹ có thể nhảy vào tham chiến trong phe Hiệp Ước. Họ nhanh chóng giành chiến thắng ban đầu và suýt nữa thì tạo nên lỗ hổng giữa các tuyến quân Anh - Pháp. Tình hình cho thấy phe Hiệp ước sẽ thua trận và Paris suýt nữa thì bị quân Đức chiếm lĩnh. Trước tình hình nguy kịch này, phe Hiệp Ước phải chọn Thiếu tướng Pháp Ferdinand Foch làm Tổng tư lệnh nhằm xây dựng sự đoàn kết trong hợp tác.

Quân Đức tuy đạt được thành công vang dội, tiến xa chưa từng thấy kể từ năm 1914 khi họ chiến thắng những trận đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng họ chỉ chiếm lĩnh được đất đai chứ không đạt được một mục tiêu chiến lược nào cả. Nước Đức thiếu hụt tiếp tế và tài nguyên, nên sau cùng thì, khi chiến dịch này chấm dứt, tình hình trở nên tồi tệ cho họ.

Hoàn cảnh lịch sử

Năm 1917 Hoa Kỳ và Brasil từ bỏ chính sách trung lập để tham gia về phe Hiệp Ước. Họ không những đóng góp quân số mà còn cung cấp cho lực lượng Hiệp Ước một hậu cứ an toàn với những cơ xưởng tối tân. Trước những thuận lợi đó, quân Hiệp Ước bắt đầu tính tới chuyện phản công.

Không phải chỉ có khối Hiệp Ước tính chuyện phản công mà người Đức cũng có kế hoạch đó.

Mùa thu 1917, các chuyên gia chiến thuật của Thượng tướng Bộ binh (General der Infanterie), Phó tổng tham mưu trưởng thứ nhất Erich Ludendorff đã soạn thảo ra 1 học thuyết mới về tấn công-Tiến công chiều sâu và trong suốt mùa Đông sau đó, họ đã cật lực tái trang bị lại khoảng 40 sư đoàn mà họ gọi là Lực lượng Bão tố. Học thuyết mới của họ đòi hỏi mọi quân nhân Đức phải biết khai thác những điểm yếu của phòng tuyến kẻ thù để khoét sâu vào tuyến cuối. Sự nhanh chóng là bí quyết của chiến thắng. [[Nguyên soái|Thống chế Paul von Hindenburg, Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II và Phó tổng tham mưu trưởng thứ nhất Erich Ludendorff]] Tuy nhiên, ngoài các đơn vị xuất sắc và được huấn luyện cẩn thận này thì các sư đoàn còn lại đều đang thiếu thốn trang bị lẫn huấn luyện để có thể chiến đấu theo lối đánh mới. Do đó, Ludendorff buộc phải dứt điểm cuộc chiến với số ít các đơn vị thiện chiến này nếu không muốn quân Đức phải sụp đổ. Mặc dù một bức tranh tuyên truyền cho thấy vua Đức tích cực tham gia lập kế hoạch Tổng tấn công, Chiến dịch này thực thụ là "sản phẩm" của Ludendorff Ludendorff hãy còn có một sai lầm lớn là không chuyển thêm quân từ Mặt trận phía Đông qua. trái|Sơ đồ cuộc tấn công của quân Đức năm 1918 Ngày hôm sau các toán Biệt kích Đức tiếp tục hoạt động mạnh khắp các phòng tuyến, sau đó là các toán quân xung kích tiến lên chiếm giữ các vị trí vừa bị làm suy yếu. Khắp phòng tuyến khối Hiệp Ước các đơn vị đều phải bỏ vị trí rút về phía sau. Tập đoàn quân số 5 của Anh và Tập đoàn quân số 1 của Pháp đều phải rút lui về bờ Tây sông Somme. Thảm họa của quân Hiệp Ước chính là do Thống chế Henri Philippe Pétain của Pháp đã không hợp tác chặt chẽ với Thống chế Douglas Haig của Anh. Chính phủ Anh đã nghe được những hung tin chiến bại. Tình hình xem ra khẩn cấp cần có người hợp nhất các lực lượng Hiệp Ước. Ngày 28 tháng 3 thì cuộc tiến quân của Đức đột ngột dừng lại gần thành phố Albert. Trên đường tiến thẳng về Amiens, quân Đức đánh chiếm làng mạc, đốt phá và cướp bóc khắp vùng cũng như tịch thu khá nhiều súng trường, súng máy, pháo các cỡ và cả xe tăng của Anh mà họ phát hiện ra.

Cũng trong lúc này, 250.000 quân Mỹ cũng đã có mặt ở mặt trận phía Tây nhưng tướng Pershing từ chối chưa đưa họ ra chiến trường ngay. Ông cũng không muốn các quân nhân Mỹ nằm dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Anh-Pháp.[http://www.historylearningsite.co.uk/german_spring_offensive_of_1918.htm]

Chiến dịch Georgette

Sau chiến dịch Michael, Ludendorff tiếp tục tung ra chiến dịch Georgette. Mục tiêu của ông là chọc thủng phòng tuyến Anh ở đoạn giữa La Basses và Armentiere ngày 9 tháng 4. Trước đó 2 ngày, pháo binh Đức đã bắn cường tập vào khu vực này bằng đạn công phá lẫn đạn hơi độc. Pháo binh vừa dứt, 25 sư đoàn Bão tố xung phong đánh chiếm dãy chiến hào ở tuyến trước trong khi 30 sư đoàn nữa xông lên chiếm giữa vị trí vừa thất thủ, họ dùng tất cả những thứ vũ khí có được, khoét sâu vào trung tâm phòng thủ của quân địch, đôi khi phải đánh cận chiến bằng dao, xẻng và cả tay không. nhỏ|Binh sĩ của [[Sư đoàn 55 của Anh trúng hơi gas của Đức ở Flandre ngày 10 tháng 4/1918]] Sương mù dày đặc đã trợ chiến hiệu quả cho quân Đức. Tuyến phòng thủ của quân Anh vỡ tan nát, họ bị đẩy lùi thêm 18 km và hôm sau tới 45 km. Nhưng cũng như lần trước, đà tiến của quân Đức chậm lại rồi dừng hẳn do kiệt sức và sa sút tinh thần. Tới ngày 30 tháng 4, chiến dịch kết thúc, 2 bên đều bị thiệt hại nặng. Tuy nhiên, trong khi quân Đức đang giành thắng lợi

Petain quyết tâm không chịu thua. Trong 1 ngày ông đã điều động 16 sư đoàn tới Marne và cho các thuộc hạ biết rằng chỉ cần cầm cự ít lâu nữa là quân Mỹ sẽ tham chiến. Ngày 4 tháng 6, tại Château-Thierry, quân Mỹ được quân Pháp hỗ trợ đã chặn đứng được các đợt xung phong của Đức, vài đơn vị Đức đã vượt qua được bờ Nam sông Marne nhưng đều bị đẩy lui. Tuy chưa hiện diện đông đảo nhưng sự xuất hiện của quân Mỹ đã gia tăng đáng kể tinh thần của quân Hiệp Ước.

Do Ferdinand Foch lo ngại quân Đức kéo về đánh Paris nên ông ra lệnh cho thuộc cấp phải giữ vững phòng tuyến bằng mọi giá. Kết quả là Tập đoàn quân số 3 của Pháp do tướng Humbert chỉ huy bị thiệt hại nặng nề mà vẫn không giữ được phòng tuyến. Tập đoàn quân số 18 của Đức do Tướng Von Hutier chỉ huy thắng thế tiến sâu thêm 11 km ngay trong ngày 9 tháng 6.

Tướng Petain lúc này đã thiết lập được 1 phòng tuyến thứ 2 để chờ Đức. Bị chặn lại lần nữa, quân Đức thiệt hại nặng.

Kết quả chiến dịch lần này là 130.000 quân Đức và 137.000 quân Hiệp Ước thương vong tính tới ngày 6 tháng 6. Trong khi ấy, trên Mặt trận Ý, những thắng lợi của quân Đức trong Chiến dịch Mùa xuân 1918 đã gây cho quân Áo-Hung ấn tượng đến mức mà họ mở Chiến dịch Piave Mặc khác, Thượng tướng Ludendorff vẫn nghĩ rằng ông có thể đánh một đòn giáng sấm sét phá vỡ quân Anh. Tuy nhiên, để khơi dậy sĩ khí, ông đặt mật mã của chiến dịch này là Friedensturm - có nghĩa là chiến dịch hòa bình. Quân Mỹ tham chiến trên chiến trường càng lúc càng đông đảo, bổ sung ồ ạt cho các đơn vị Anh-Pháp đã bị thiệt hại nặng nề trong các chiến dịch trước. Hậu quả của cuộc tấn công cuối cùng này của quân Đức còn nghiêm trọng hơn cả Chiến dịch Nivelle đối với quân Pháp hồi năm 1917.

Tới ngày 17 tháng 6 thì cuộc tấn công của Đức coi như đã thất bại - là thất bại của một nỗ lực lớn cuối cùng của Đức để chiến thắng cuộc chiến tranh. Trong cuộc phản công ở Cambrai ngày 16 tháng 7 thì 18 sư đoàn bộ binh cùng 225 xe tăng đã đẩy quân Đức lùi về phía sau 6 km. Đồng thời với quân Pháp, người Mỹ cũng tung ra 4 sư đoàn. Tuy bị thiệt hại nặng nhưng họ cũng đã góp phần đẩy quân Đức về bờ Bắc sông Velse. Từ đây khả năng tấn công của Đức đã hết. Cả Hoàng đế Wilhelm II, Tổng Tham mưu trưởng Hindenburg và Thượng tướng Ludendorff đều phải thừa nhận rằng nước Đức đã thất bại chiến dịch này, mặc dù họ đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang (quân Anh đã hứng chịu nhiều thảm bại nhất trong chiến dịch này) và kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn. Nhìn chung, đây được coi là một thắng lợi chiến thuật vang dội của quân Đức, nhưng chỉ mang tính tạm thời và không thể quyết định cuộc chiến. Với phòng tuyến phe Hiệp Ước không hề bị chọc thủng, Chiến dịch Mùa Xuân 1918 là một thất bại chiến dịch và chiến lược quyết định của quân Đức trước việc quân Mỹ càng tham chiến tích cực, sĩ khí liên quân Anh - Pháp đã được hồi phục, trong khi điều tương tự không thể nào đến với nước Đức vốn đã bị kiệt quệ. Trước sự phản công mãnh liệt của quân Hiệp Ước Dù sao đi chăng nữa, thất bại của kế hoạch Schlieffen (1914), Chiến dịch Verdun (1916) và Chiến dịch Mùa Xuân này đã góp phần gây nên sự bất mãn của nhân dân Đức đối với Kaiser và chủ nghĩa quân phiệt Phổ.

Mặc dù thất bại trong Chiến dịch Tổng tấn công Mùa xuân 1918 đưa họ vào tình thế nguy kịch và khiến cho họ nắm chắc chiến bại trong tay, các Sĩ quan của họ vẫn được đào luyện nghiêm ngặt. Trong khi thắng lợi ban đầu của cuộc Tổng tấn công Mùa xuân đã chứng tỏ với người Đức rằng "Lực lượng Bão tố" chính là giải pháp cho việc khôi phục sự cơ động trên chiến trường của họ, thất bại của Chiến dịch ấy cho thấy rằng để áp dụng tốt chiến thuật, họ cần phải tích cực phát triển thêm công nghệ và nguyên liệu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918**, còn gọi là **Các cuộc Tổng tấn công Ludendorff**, **Trận chiến của Hoàng đế** (_Kaiserschlacht_) hay **Chiến dịch Ludendorff** là tên chiến dịch Tổng tấn công lớn của
**Tổng tấn công Một trăm ngày** (8 tháng 8 - 11 tháng 11 năm 1918) là một loạt các cuộc tiến công của phe Hiệp ước nhằm kết thúc Chiến tranh thế giới 1. Bắt
**Chiến dịch tấn công Brusilov** là cuộc tấn công diễn ra từ 4 tháng 6 đến ngày 20 tháng 9 năm 1916 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất của Đế quốc Nga nhằm vào
**Trận Soissons** là một trận chiến giữa Đế chế Đức và liên quân Pháp - Hoa Kỳ trên Mặt trận phía Tây trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Đây
## Sự kiện ### Tháng 1 * 3 tháng 1 - Tôn Trung Sơn đích thân chỉ huy pháp kích tổng quân bộ * 8 tháng 1 - Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch 14
thumb|Quân đội Úc chiếm một vị trí gần Villers-Bretonneux vào tháng 5 năm 1918. Trong suốt tháng 4, tháng 5 và tháng 6, quân Úc đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công trong
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
thumb|Bản in khắc gỗ của Nhật Bản mô tả một cuộc tấn công của bộ binh trong [[Chiến tranh Nga–Nhật.]] **Chiến thuật biển người** (Hán ngữ: **人海戰術**: **Nhân hải chiến thuật**) là một chiến thuật
**Trận sông Somme lần thứ hai** là trận đánh diễn ra vào cuối mùa hè năm 1918 giữa đế quốc Đức và liên minh các nước thuộc phe Hiệp ước trong thế chiến thứ nhất
**Trận Amiens**, tức là **cuộc Tổng tiến công Amiens**, còn được gọi là **Trận Picardie lần thứ ba** hoặc là **Trận Montdidier** theo cách gọi của người Pháp, là một trong những trận đánh nổi
**Trận sông Aisne lần thứ ba**, còn gọi là **Trận Chemin des Dames lần thứ hai**, là một trận đánh quan trọng trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất,
phải|nhỏ|Tướng Otto von Hügel **Eugen Otto Freiherr von Hügel** (20 tháng 9 năm 1853 tại Stuttgart – 4 tháng 1 năm 1928 tại Nonneau) là một sĩ quan quân đội Württemberg, đã được thăng đến
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)** là nơi diễn ra những trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất giữa Ý và Đế quốc Áo-Hung cùng với các đồng minh của
[[Quốc kỳ Đế quốc Áo-Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước thuộc khối quân sự Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Các trận đánh diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ nhất** bao gồm các trận đánh trên bộ, hải chiến và không chiến diễn ra trên khắp các chiến trường của Chiến tranh thế
**Trận sông Piave** (15-23 tháng 6 năm 1918) hay **Trận Hạ chí** (_Battaglia del Solstizio_), **Trận giữa Tháng sáu** (_Battaglia di Mezzo Giugno_), **Trận sông Piave lần thứ hai** (_Seconda Battaglia del Piave_ - trận
**Tập đoàn quân số 1** (Tiếng Đức**: 1_. Armee / Armeeoberkommando 1 / A.O.K 1**_) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Quân đội bị giải thể
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Quân đội Đế quốc Đức đã mở ra **Mặt trận phía tây**, khi họ tràn qua Luxembourg và Bỉ, rồi giành
**Sopwith Camel** là kiểu máy bay tiêm kích một chỗ ngồi được Không quân Hoàng gia Anh (RAF) sử dụng trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đây là kiểu máy bay được đánh
**Georg Freiherr von Gayl** (25 tháng 2 năm 1850 tại Berlin – 3 tháng 5 năm 1927 tại Stolp, Pommern) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
**Trận Caporetto** là trận đánh diễn ra giữa Ý và Đế quốc Áo-Hung có sự yểm trợ của Đế chế Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra từ ngày 24
**Mark IV** là một loại xe tăng của Anh sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Được sản xuất vào năm 1917 dựa trên những phát triển từ lớp xe tăng Anh đầu
**Trận sông Marne lần thứ nhất** là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Đức và liên quân Anh - Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất từ ngày 5 tháng 9 cho
**Lev Davidovich Trotsky** hay **Leon Trotsky** (họ thật là **Bronstein**; – 21 tháng 8 năm 1940) là nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Do Thái gốc Nga – Ukraina,
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Hỏa lực chặn** hay **hàng rào hỏa lực** () là một loạt đạn pháo binh được bắn liên tục nhằm vào một loạt các điểm dọc theo một tuyến chiến đấu. Cũng như việc tấn
**Cộng hòa Serbia Krajina** (, viết tắt _RSK_) có thể gọi ngắn **Serbia Krajina** hoặc **Krajina**, là một nhà nước không được công nhận, tồn tại trong thời gian ngắn ở Đông Nam Âu. Serbia
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Tổng thống Thụy Sĩ**, hay chính thức là **Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ** (còn gọi khác là **Chủ tịch Tổng Liên đoàn** **Thụy Sĩ**) (Đức: _Bundespräsident (in) der Eidgenossenschaft, Pháp:Président (e) de la Tổng
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô** (), hay Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, gọi tắt **Trung ương Đảng Liên Xô** () là cơ quan quyền lực cao
**Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản** hay **Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản** ( là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia** ( _Haykakan Sovetakan Soc’ialistakan Hanrapetut’yun_; _Armjanskaja Sovetskaja Sotsialističeskaja Respublika_), cũng viết tắt là **CHXHCNXV Armenia** hay **Armenia Xô viết**, là một trong 15 nước cộng hòa
**Trận sông Marne lần thứ hai**, còn gọi là **Cuộc Tổng tấn công Marne-Reims** hoặc là **Trận chiến Reims** (15 tháng 7 - 16 tháng 9 năm 1918) là một trận đánh lớn trong cuộc
**Đấu tranh nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) vào thập niên 1920** — là một quá trình sắp xếp lại quyền lực trong Đảng Cộng sản Toàn Nga của những người Bolshevik, bắt
**Theodore Roosevelt III** (13 tháng 9 năm 1887 – 12 tháng 7 năm 1944), thường được biết đến là **Theodore** **Roosevelt Jr.**, **Ted** hoặc **Teddy**, là một chính trị gia, nhà kinh doanh và sĩ quan
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Sergey Sergeyevich Kamenev** (; 4 (16) tháng 4 năm 1881 - 25 tháng 8 năm 1936) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân thời kỳ đầu, một trong những chỉ huy Hồng quân
**Tản Đà** (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật **Nguyễn Khắc Hiếu** (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của
**Cách mạng Tháng Mười**, còn được gọi là **Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại** trong các sử liệu Liên Xô; các tên gọi khác được sử dụng rộng rãi trong giới
**USS _Utah_ (BB-31)** là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến
**Nguyễn Xuân Phúc** (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Quảng Nam) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
**Đurica Jurica Ribar** (Đakovo, 26 tháng 3 năm 1918 - Trebaljevo, gần Kolašin, 3 tháng 10 năm 1943) là một luật sư, họa sĩ, nhà cách mạng và tham gia Chiến tranh nhân dân giải
**Dương Văn Minh** (16 tháng 2 năm 1916 – 6 tháng 8 năm 2001), là một trong những nhân vật chính trị và quân sự quan trọng của Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu