✨Dương Văn Minh

Dương Văn Minh

Dương Văn Minh (16 tháng 2 năm 1916 – 6 tháng 8 năm 2001), là một trong những nhân vật chính trị và quân sự quan trọng của Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Ông từng là tướng lĩnh cấp cao của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và đảm nhiệm nhiều vai trò lãnh đạo, trong đó có chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cuối cùng trước thời điểm Sài Gòn thất thủ năm 1975. Ông thường được báo chí phương Tây gọi là "Big Minh" (Minh Lớn), bắt nguồn từ thể hình cao lớn nổi bật của ông, với chiều cao khoảng 1,83 m và cân nặng xấp xỉ 90 kg.

Sinh tại tỉnh Tiền Giang, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long miền Nam Việt Nam, Dương Văn Minh bắt đầu gia nhập quân đội Pháp trong Thế chiến II. Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương, ông bị quân đội Đế quốc Nhật Bản bắt giữ và tra tấn. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam do Pháp hậu thuẫn và từng trải qua thời gian bị Việt Minh giam giữ trước khi trốn thoát. Năm 1955, sau khi Việt Nam bị chia cắt, Dương Văn Minh đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố quyền lực của Thủ tướng Ngô Đình Diệm bằng cách chỉ huy các chiến dịch quân sự tiêu diệt tổ chức Bình Xuyên và giải tán lực lượng vũ trang giáo phái Hòa Hảo. Chiến thắng trong các trận chiến đường phố giúp ông trở nên nổi tiếng trong dân chúng và được Diệm tin cậy, mặc dù về sau ông bị điều chuyển sang vị trí ít quyền lực nhằm ngăn ngừa nguy cơ thách thức chính trị.

Đến năm 1963, trong bối cảnh khủng hoảng Phật giáo và sự bất mãn ngày càng gia tăng trong quân đội, Dương Văn Minh trở thành người lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Ngày 2 tháng 11 năm 1963, sau khi bị bắt, Diệm cùng em trai là Ngô Đình Nhu bị sát hại, và bản thân Dương Văn Minh đã bị cáo buộc là đã ra lệnh cho phụ tá Nguyễn Văn Nhung thực hiện vụ ám sát. Sau vụ đảo chính, Dương Văn Minh đứng đầu chính quyền quân sự mới trong vòng ba tháng, nhưng bị đánh giá là một nhà lãnh đạo thiếu quyết đoán và không hiệu quả, trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gia tăng hoạt động khiến uy tín của chính quyền bị suy giảm nhanh chóng. Tháng 1 năm 1964, Nguyễn Khánh cùng các tướng lĩnh đồng minh tiến hành đảo chính, buộc Dương Văn Minh phải rút lui vào vai trò quốc trưởng danh nghĩa và sau đó lưu vong. Sau thời gian dài vắng bóng trên chính trường, ông trở lại Việt Nam năm 1971 để thách thức Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc bầu cử tổng thống, nhưng rút lui khi nhận thấy cuộc bầu cử đã bị thao túng.

Trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, Dương Văn Minh chủ trương xây dựng một "lực lượng thứ ba", tin rằng Việt Nam có thể thống nhất qua thương lượng thay vì đối đầu quân sự toàn diện. Tuy nhiên, kế hoạch này không được chấp nhận trong bối cảnh chính trị miền Nam. Tháng 4 năm 1975, trước nguy cơ Sài Gòn thất thủ, Dương Văn Minh được Quốc hội Việt Nam Cộng hòa yêu cầu đảm nhận chức vụ Tổng thống ngày 28 tháng 4, chỉ hai ngày trước khi ông tuyên bố đầu hàng để tránh tiếp tục đổ máu vô nghĩa. Sau chiến tranh, Dương Văn Minh không bị đưa đi cải tạo như nhiều sĩ quan cấp cao khác và sống ẩn dật tại Sài Gòn. Năm 1983, ông được phép xuất cảnh sang Pháp để sống cùng con cái, sau đó định cư tại California, Hoa Kỳ, cho đến khi qua đời tại đây vào năm 2001.

Thiếu thời

Dương Văn Minh sinh ngày 16 tháng 2 năm 1916 tại tỉnh Mỹ Tho, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong một gia đình trung nông khá giả. Cha ông từng giữ một chức vụ cao trong Bộ Tài chính của chính quyền thuộc địa Pháp. Gia đình Dương Văn Minh theo đạo Phật, sống theo lễ giáo và nề nếp truyền thống. Bản thân ông cũng là một Phật tử thuần thành, được đánh giá là người "có tâm, ăn nói điềm đạm, ôn tồn và chất phác", những phẩm chất cá nhân này đã ảnh hưởng rõ nét đến phong cách lãnh đạo và hành xử chính trị của ông trong suốt sự nghiệp. Gia đình ông gồm bảy anh chị em, bốn trai và ba gái; Dương Văn Minh là con trai trưởng. Trong số các anh em của ông, Dương Văn Nhựt đã gia nhập Việt Minh từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và tiếp tục chiến đấu trong suốt hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ, sau này trở thành Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Em trai thứ năm, Dương Thanh Sơn, theo chân ông và trở thành sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Thuở nhỏ, Dương Văn Minh theo học tại trường Collège de Mytho (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu), sau đó lên Sài Gòn học tiếp tại Collège Chasseloup-Laubat (nay là Trường Trung học Lê Quý Đôn), cùng lớp với Trần Văn Đôn. Trong thời gian này, ông nổi tiếng trong giới học sinh với biệt danh "Minh Cồ" nhờ thể hình to lớn, vạm vỡ. Năm 1938, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần Pháp (Part II). Sau đó, ông được bổ dụng làm Công chức thuộc ngạch Thư ký Hành chính, công tác tại Sài Gòn. Bên cạnh học vấn, ông cũng bộc lộ năng khiếu và niềm đam mê thể thao từ khi còn trẻ.

Binh nghiệp

Quân đội Thuộc địa và Liên hiệp Pháp

Năm 1939, Dương Văn Minh nhập ngũ vào Quân đội Thuộc địa Pháp, mang số quân 36/100.225. Ngày 9 tháng 1 năm 1940, ông được gửi theo học khóa 1 tại Trường Sĩ quan Thủ Dầu Một (đặt tại Phú Lợi). Đầu năm 1941, ông tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy Bộ binh. Cũng trong năm 1940, ông nằm trong số 50 sĩ quan người Việt hiếm hoi được chính thức phong hàm sau khóa đào tạo tại trường võ bị ở Pháp.

Khi Đế quốc Nhật Bản tiến hành cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông đang phục vụ tại Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay). Ông bị Nhật bắt giữ và giam tại khám Catinat ở Sài Gòn. Trong thời gian bị tra tấn bởi Kempeitai (Hiến binh Nhật), ông bị nhổ gần hết răng, chỉ còn lại một chiếc duy nhất — một vết tích mà về sau ông xem là biểu tượng cá nhân cho tinh thần kiên cường và bất khuất.

Năm 1946, Dương Văn Minh tái phục vụ trong Trung đoàn 11 Bộ binh thuộc lực lượng Pháp, giữ chức Trung đội trưởng. Hai tháng sau, ông được thăng cấp Thiếu úy. Đến giữa năm 1948, khi Quân đội Liên hiệp Pháp được thành lập trong khuôn khổ nỗ lực xây dựng lực lượng bản địa, Dương Văn Minh tiếp tục được thăng cấp Trung úy và đảm nhiệm chức vụ Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 8 năm 1950, chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia mới thành lập, ông được thăng cấp Đại úy. Năm 1951, ông được chuyển sang Dinh Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành, giữ chức vụ Chánh võ phòng, tháng 12 cuối năm ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Đầu tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Tham mưu trưởng Đệ nhất Quân khu Nam Việt dưới quyền Tư lệnh Quân khu là Đại tá Lê Văn Tỵ. Cuối năm, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp tại Trường Tham mưu Paris sau khi bàn giao chức Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tá Trần Văn Minh. Đầu năm 1953 mãn khóa học về nước tùng sự tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Tháng 11 năm 1954, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

Sau khi người Pháp thất trận Điện Biên Phủ, ông là một trong những sĩ quan cao cấp ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm nắm quyền, loại trừ vai trò của Quốc trưởng Bảo Đại. Vì vậy ngày 1 tháng 5 năm 1955, ông được Thủ tướng Diệm cử làm Chỉ huy trưởng chiến dịch Bảo vệ Thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn, chống lại quân Bình Xuyên của tướng Lê Văn Viễn tại vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và phụ cận. Ngày 5 tháng 5 ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 21 tháng 9 cùng năm, ông được Thủ tướng Diệm cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, truy kích và tiêu diệt các lực lượng tàn quân Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Ngày 1 tháng 11 năm 1955, ông được tân Quốc trưởng Ngô Đình Diệm thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Đầu năm 1956, sau khi hoàn tất việc dẹp loạn Bình Xuyên, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ rồi tiếp đến Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để bình định miền Tây, đánh dẹp Lực lượng Quân sự Giáo phái Hòa Hảo của các tướng Năm Lửa và Ba Cụt. Ngày 26 tháng 10, ông được Tổng thống Diệm chỉ định làm Tổng Chỉ huy cuộc duyệt binh mừng lễ kỷ niệm Đệ nhất Chu niên ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Ngày 8 tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Đầu năm 1957, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân khu Thủ đô. Từ tháng 7 đến tháng 11, ông có 3 lần hướng dẫn phái đoàn Quân sự du hành quan sát tại các Quốc gia Nhật Bản (12 tháng 7), Úc (1 tháng 9) và Hàn Quốc. Đầu tháng 8 năm 1958, bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân khu Thủ đô lại cho Đại tá Nguyễn Văn Y để đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu Cao cấp (khóa 58-2) tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leaveworth, Kansas, Hoa Kỳ với thời gian thụ huấn 16 tuần. Đầu tháng 1 năm 1959 mãn khóa học về nước, ông được giao cho chức vụ Tư lệnh tổng quát 3 Quân khu gồm: Quân khu Thủ đô, Quân khu 1 và Quân khu 5 (Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu).

Tuy nhiên, trong những năm sau đó, sự tín nhiệm của ông đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giảm sút. Ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ không có thực quyền. Đầu năm 1960, ông được cử làm Tổng Thư ký Thường trực Bộ Quốc phòng. Qua đầu năm 1961, giữ chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân tại Bộ Tổng Tham mưu, Phụ tá cho ông là Thiếu tướng Lê Văn Kim. Giữa năm 1962, ông được cử hướng dẫn Phái đoàn Quân sự du hành quan sát cuộc thao dượt Hải quân Liên phòng Đông Nam Á. Ngày 8 tháng 12, Bộ Tư lệnh Hành quân Bộ Tổng Tham mưu giải tán. Đầu năm 1963, ông được chuyển về Phủ Tổng thống giữ chức vụ Cố vấn Quân sự cho Tổng thống.

Đảo chính 1963 và những thăng trầm sau đó

nhỏ|phải|Trung tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng Vốn đã có bất mãn tồn tại, cộng thêm là một tín đồ Phật giáo, ông đã nhiều lần biểu hiện thái độ không hài lòng với những biện pháp trấn áp Phật giáo của Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đóng vai trò chính với cương vị Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, cùng với các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu...

Từ khi hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại (ngày 2/11/1963), ông và các tướng tá đồng sự của ông không ai công khai thừa nhận mình có tham gia quyết định giết Tổng thống, có thể vì 2 lẽ:

  • Việc sát hại Nguyên thủ đứng đầu Chính phủ như Tổng thống Diệm là hành động làm phản ở mức cao nhất, điều vượt quá sức tưởng tượng của nhiều quan chức Việt Nam Cộng hòa thời đó.
  • Các tướng tá tham gia đảo chánh trong chừng mực nào đó hầu hết đều có mang ơn Tổng thống Diệm trên con đường thăng tiến binh nghiệp của mình, nhưng họ "bất đắc dĩ" phải hạ thủ là để "sát nhất miêu cứu vạn thử" (giết một con mèo để cứu muôn con chuột), và cần phải "nhổ cỏ tận gốc" đề phòng nhóm thân Tổng thống Diệm lưu vong ở nước ngoài sẽ có thể tái tập hợp lực lượng, kết hợp với ngoại quốc hoặc thành phần trong nước để tìm cách phục hồi quyền lực, trả thù nhóm đảo chính.

Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, tướng Nguyễn Khánh cầm đầu Cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964 lật đổ Chính quyền Quân sự này và giành quyền cai trị Việt Nam Cộng hòa. Ông bị thất thế về chính trị, mặc dù vẫn được giữ chức vụ Quốc trưởng, với chức vụ này, ông là một trong 3 lãnh đạo Quốc gia cho chế độ được xưng là "Tam đầu chế":

  • Quốc trưởng: Trung tướng Dương Văn Minh
  • Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh
  • Tổng tư lệnh Quân đội: Đại tướng Trần Thiện Khiêm

Ngày 24 tháng 11 năm 1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng cấp Đại tướng (cùng với tướng Nguyễn Khánh). Tháng 12 năm 1964, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan thay thế Trung tướng Thái Quang Hoàng. Ngày 21 tháng 3 năm 1965, ông nhận được quyết định giải ngũ của Hội đồng Quân lực. Tuy nhiên, ông vẫn được giữ làm Đại sứ tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương.

Năm 1971, ông trở lại chính trường để đối đầu với đương kim Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử Tổng thống. Tuy được nhiều người cho rằng rất có thể ông là lãnh đạo của "Lực lượng thứ ba", có thể đàm phán hòa bình với quân Giải phóng để tránh việc chiến tranh tiếp diễn lâu dài, nhưng nỗ lực của ông đã bị Tổng thống Thiệu cản trở. Cuối cùng, ông đã rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là "trò múa rối". Tổng thống Thiệu hiển nhiên tái đắc cử tổng thống năm đó do ông ta là ứng cử viên duy nhất, không phải cạnh tranh với bất kỳ đối thủ nào.

Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền lực cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương trước khi di tản sang Đài Loan dưới danh nghĩa viếng tang Tưởng Giới Thạch. Trần Văn Hương, trong những ngày cuối cùng, đã nỗ lực tìm kiếm khả năng đàm phán hòa bình với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN). Tuy nhiên, sau khi các đề nghị của ông bị từ chối, Trần Văn Hương tuyên bố từ chức. Ngày 27 tháng 4, khi Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) mở đợt tổng tấn công vào Sài Gòn, trong phiên họp chung của Lưỡng viện Quốc hội, chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa được nhất trí chuyển giao cho Dương Văn Minh. Ông tuyên thệ nhậm chức vào ngày hôm sau, với kỳ vọng — đặc biệt từ phía Pháp — rằng sẽ có thể dàn xếp một thỏa thuận ngừng bắn. đặc biệt em ruột của ông là một sĩ quan QGPMNVN, khiến một bộ phận kỳ vọng rằng ông có thể mở lại các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, kỳ vọng này nhanh chóng tỏ ra phi thực tế: MTDTGPMN đang nắm ưu thế quân sự tuyệt đối và không có động cơ nào để thương lượng chia sẻ quyền lực.

Ngày 28 tháng 4, QGPMNVN tiến vào các khu vực ngoại vi Sài Gòn. Ngay khi Dương Văn Minh hoàn tất bài diễn văn nhậm chức, kêu gọi hai phe ngừng bắn và tiến hành thương thuyết, Khi Biên Hòa thất thủ, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, tháo chạy về Sài Gòn, báo cáo rằng giới lãnh đạo quân sự Nam Việt Nam đã gần như hoàn toàn chấp nhận thất bại. Việc Dương Văn Minh lên nắm quyền được xem là tín hiệu cho những sĩ quan không muốn đầu hàng: họ hoặc tìm cách rời đi, hoặc chọn tự sát.

Trong nỗ lực cuối cùng nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế, sáng ngày 28 tháng 4, tướng tình báo Pháp François Vanussème đã đề nghị Dương Văn Minh kêu gọi Trung Quốc can thiệp quân sự để cứu vãn tình hình. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc cũng gợi ý rằng QLVNCH nên cố thủ tại Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam để tạo áp lực ép Hà Nội rút quân. Bản thân Dương Văn Minh, vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt và gia đình thuyết phục từ trước, đã từ chối rằng: "Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho bên thứ ba."

Các đơn vị quân QGPMNVN tiến sâu vào nội thành Sài Gòn mà gần như không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Ngoại trừ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi QLVNCH còn duy trì được tổ chức tác chiến, phần lớn các đơn vị miền Nam đã tan rã. Gần 5 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Lúc 10 giờ 24 phút sáng cùng ngày,

Khoảng giữa trưa, một chiếc xe tăng Bắc Việt đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập. Khi các binh sĩ tiến vào, Dương Văn Minh và nội các đang ngồi chờ sẵn tại phòng họp. Dương Văn Minh phát biểu: "Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền". Tuy nhiên, Đại tá Bùi Văn Tùng, chỉ huy lực lượng tiếp quản, đáp lại: "Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết." Buổi chiều cùng ngày, Dương Văn Minh tiếp tục lên sóng phát thanh tuyên bố: "Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam."

Sau đó, Dương Văn Minh được phía cách mạng mời làm việc, nhưng không bị bắt giam hay trừng phạt nặng. Sau vài ngày, ông được phép trở về sinh sống tại tư gia — điều hiếm hoi so với phần lớn sĩ quan và công chức Việt Nam Cộng hòa, nhiều người bị đưa đi cải tạo. Trong tám năm tiếp theo, Dương Văn Minh sống ẩn dật, dành thời gian chăm sóc chim cảnh và trồng lan quý hiếm.

"Tôi rất yêu quý ba tôi… Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ…. Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu "tử thủ" Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông "yêu nước trước hết là phải cứu dân"" (theo tạp chí Hồn Việt, 1.6.2009).

Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận từng ở nhờ thời gian khá dài trong tư gia của tướng Dương Văn Minh thì ông Minh là "loại người trầm lắng, suy tư dù gốc của ông là một quân nhân. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo, ông không đua chen, không sân si; ông thuộc vào loại thấy đủ biết đủ, thấy nhàn biết nhàn. Đó là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống khá bình dị, hòa mình với mọi người, đa số bạn bè bà con đều thương ông."

Gia đình

Thân phụ là Dương Văn Mâu (tức Dương Văn Mau, nguyên danh là Dương Văn Huề), cựu công chức Hành chính, tùng sự tại dinh Phó soái Nam Kỳ, hàm Đốc phủ sứ. Thân mẫu của ông là Phan Xuân Lý. Dương Văn Minh là con trai trưởng trong gia đình, "Anh Hai" theo cách gọi miền Nam), sau ông còn có 3 em trai và 3 em gái.

Ông có hai bào đệ là:

  • Dương Thanh Nhựt (tức Dương Văn Nhật), sinh năm 1918. Nguyên là Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đã vận động anh mình (tướng Minh) không bắt tay với Trung Quốc mà đầu hàng. Mất năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Dương Thanh Sơn, sinh năm 1924, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K6. Nguyên Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Trưởng phòng Truyền tin Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.

Vợ ông là Trần Thị Lang, ông bà có ba người con (2 trai, 1 gái):

  • Dương Thị Xuân Mai (Phu quân: Nguyễn Hồng Đài, sinh năm 1931, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K1. Sau cùng là Đại tá Trưởng khối Kế hoạch của Tổng cục Tiếp vận. Hiện cùng gia đình định cư ở Hoa Kỳ).
  • Dương Minh Đức (định cư ở Pháp).
  • Dương Minh Tâm (định cư ở Pháp).
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dương Văn Minh** (16 tháng 2 năm 1916 – 6 tháng 8 năm 2001), là một trong những nhân vật chính trị và quân sự quan trọng của Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
**Văn minh lưu vực sông Ấn Độ**, **Văn minh sông Ấn** hay **Văn hóa sông Ấn**, cũng còn được gọi là **Văn hóa Harappa** theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính,
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
Di vật đèn thuyền [[Văn hóa Đông Sơn- sản phẩm của nền Văn minh lúa nước]] **Văn minh lúa nước** là một dạng văn minh nông nghiệp, xuất hiện cách đây khoảng 13.000 năm tại
**Văn minh Maya** là một nền văn minh Trung Bộ châu Mỹ của người Maya, nổi bật với hệ chữ tượng hình ký âm—hệ chữ viết tinh vi bậc nhất ở Châu Mỹ thời tiền
Vùng núi Andes giữa [[Chile và Argentina]] Vào thời kỳ trước khi Christopher Columbus đến châu Mỹ, ở Nam Mỹ từng tồn tại nền văn minh cổ đại lâu đời của người thổ dân châu
**Dương Văn Ba** (1942 – 2015) là giáo viên dạy về triết học, nhà báo và dân biểu đối lập trong Hạ nghị viện khóa 1967-1971 thời Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng là Thứ
Đền Taj Mahal **Nền văn minh Ấn Độ** là một nền văn minh nổi tiếng và thuộc về những nền văn minh cổ nhất thế giới. Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại bao
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
phải|nhỏ|[[Đĩa Phaistos|Chiếc đĩa Phaistos trong Khu A của bảo tàng khảo cổ học Heraklion, thủ phủ của đảo Crete]] nhỏ|phải|Bức tượng "Nữ thần rắn", bảo tàng khảo cổ học Heraklion **Minos** (Tiếng Hy Lạp: Μινωίτες)
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Văn minh Mycenae** hay **Hy Lạp thời kỳ Mycenae** là giai đoạn cuối cùng của thời đại đồ đồng tại Hy Lạp, kéo dài từ khoảng năm 1750 TCN - 1050 TCN. Giai đoạn Mycenae
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Nền văn minh Chavin** là nền văn minh thời tiền sử đã biến mất đặt tên theo Chavin de Huantar, địa chỉ khảo cổ học chính với các hiện vật tiêu biểu đã được tìm
**Dương Văn Thông** (chữ Hán: 杨文骢, ? – 1646), tự **Long Hữu**, người Quý Dương, Quý Châu, là quan viên cấp thấp cuối đời Minh, dựa thế quyền thần Mã Sĩ Anh, trở thành trọng
**Dương Văn Dương** (còn gọi là **Ba Dương**; 1900 – 20 tháng 2 năm 1946) là thủ lĩnh của lực lượng quân sự Bộ đội Bình Xuyên trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945–1946.
**Dương Văn Nhựt** (**Dương Thanh Nhựt**, **Dương Văn Nhật**, **Ba Nhật**), bí danh khi hoạt động cách mạng là **Mười Ty**, sinh ra tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho (1918 – 1999) là một
**Dương Văn Đức** (1925 - 2000) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của
nhỏ| Lưu vực sông Hoàng Hà nhỏ| [[Liềm|Lưỡi liềm đá, văn hóa Bùi Lý Cương (7000–5000 TCN)]] nhỏ| Mô hình làng [[Văn hóa Ngưỡng Thiều|văn hóa Dương Thiều (4800–2500 TCN)]] nhỏ| Đồ đựng của [[Văn
**Dương Văn Phước** (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1967) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu
**Trần Văn Minh** (1923-2009) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính quyền thuộc địa
nhỏ|Linh dương vằn Kudu **Linh dương vằn Kudu** hay còn gọi là **linh dương Kudu** là những loài linh dương thuộc chi Tragelaphus. Chi này hiện nay có hai loài gồm: linh dương Kudu nhỏ
** Dương Văn An** (sinh năm 1971) là một Chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, nguyên Bí thư
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Võ Văn Minh** (sinh năm 1972, bí danh **Sơn**) là chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Chủ tịch Hội đồng nhân dân TP Hồ Chí Minh sau đợt sắp xếp lại đơn
**Nguyễn Văn Minh** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý trại
**Nguyễn Văn Minh Tiến** (sinh năm 1974) là một thợ sửa chữa đồ điện tử tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, người đã truy bắt quả tang thành công nhiều
**Văn Minh Đế** (_chữ Hán_:文明帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách * Tiền Yên Văn Minh Đế (truy tôn,
**Ngô Văn Minh** (5 tháng 9 năm 1959 – 16 tháng 12 năm 2016) là một chính khách người Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII, XIII, XIV thuộc đoàn đại biểu
**Nguyễn Văn Minh** là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa. ## Tiểu sử Nguyễn Văn Minh là đảng viên
**Dương Văn Khoa** (sinh ngày 6 tháng 5 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh cho câu lạc bộ
**Dương Văn Rã** (20 tháng 12 năm 1957 – 13 tháng 10 năm 2019) là một sĩ quan cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục
**Dương Văn Quảng** (杨文广; ? - 1074), tên chữ là Trọng Dung, người Tịnh Châu Thái Nguyên (nay là Sơn Tây Thái Nguyên), cháu Dương Nghiệp danh tướng kháng Liêu thời Bắc Tống. Ông cùng
nhỏ|Hình ảnh Đường Văn Cao, Hà Nội **Đường Văn Cao** là một tuyến đường dài khoảng 1 km từ đường bờ phía nam hồ Tây (chỗ giáp ranh ngã ba Nguyễn Đình Thi - Trích Sài),
**Thái Văn Minh** là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Tiểu sử
**Trần Văn Minh** là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Chánh Văn phòng Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng Việt Nam. ## Sự nghiệp Trần Văn Minh sinh
**Dương Văn Mạnh** (1930 – Tháng 4 năm 1946) là một liệt sĩ thiếu niên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Anh là một trong số ít các thiếu niên được
**Dương Văn Cảnh** là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên. ## Tiểu sử Dương Văn Cảnh là đảng viên
**Dương Văn Thăng** (sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969 nhỏ Ông có bằng tiến sĩ Luật. Chiều ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại kì họp thứ 7 Quốc hội Việt Nam khóa 14,
**Cao Văn Minh** là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng ## Thân thế sự nghiệp Ông từng giữ
**Hoàng Văn Minh**, quê ông ở xã Lạng Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Phó Giáo sư, Tiến
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
Nhằm hưởng ứng và triển khai có hiệu quả Ngày cao điểm Tình nguyện xây dựng đô thị văn minh, các cấp bộ Đoàn trong tỉnh Kiên Giang sẽ triển khai các tiêu chí đô
Nhằm hưởng ứng và triển khai có hiệu quả Ngày cao điểm Tình nguyện xây dựng đô thị văn minh, các cấp bộ Đoàn trong tỉnh Kiên Giang sẽ triển khai các tiêu chí đô
**Lê Văn Thảo** (1 tháng 10 năm 1939 – 21 tháng 10 năm 2016), quê quán tại tỉnh Long An, là một nhà văn Việt Nam, được xem là cây bút gạo cội trong dòng
**Giang Văn Minh** (chữ Hán: 江文明, 1573 - 1638) tự **Quốc Hoa**, hiệu **Văn Chung**, là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng với giai thoại sứ thần "Bất
**Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn** là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành