✨Linh dương vằn Kudu

Linh dương vằn Kudu

nhỏ|Linh dương vằn Kudu Linh dương vằn Kudu hay còn gọi là linh dương Kudu là những loài linh dương thuộc chi Tragelaphus. Chi này hiện nay có hai loài gồm: linh dương Kudu nhỏ (Tragelaphus imberbis) phân bố tại vùng phía Đông châu Phi và linh dương Kudu lớn (Tragelaphus strepsiceros) phân bố tại phía Đông và Đông Nam của châu Phi. Tên của loài động vật được du nhập vào Anh trong thế kỷ 18 từ iqhude trong tiếng isiXhosa, qua tiếng Afrikaans là Koedoe.

Phân bố

Linh dương Kudu đến từ các thảo nguyên, xavan và cây bụi. Chúng phải dựa vào bụi cây để bảo vệ mình trước những cuộc tấn công của các dã thú, chẳng hạn như chó hoang châu Phi, vì vậy, hiếm khi thấy chúng trong vùng đồng đỏ. Phạm vi của các Kudu lớn kéo dài từ phía đông ở Ethiopia, Tanzania, Eritrea và Kenya vào phía nam, nơi chúng được tìm thấy ở Zambia, Angola, Namibia, Botswana, Zimbabwe và Nam Phi. Chúng cũng đã được nhập nội với số lượng nhỏ vào New Mexico. Môi trường sống của chúng bao gồm dày thảo nguyên cây bụi, sườn đồi đá, lòng sông khô. Kudu nhỏ là Chúng là loài bản địa Ethiopia, Kenya, Somalia, Sudan, Tanzania và Uganda. Nó đã tuyệt chủng tại khu vực ở Djibouti. Được xem là loài sắp bị đe dọa bởi Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN), số lượng loài này đang giảm sút.

Đặc điểm

nhỏ|Một con linh dương Kudu Màu nâu và sọc của những tấm da xám xịt ở chúng giúp đỡ để ngụy trang trong môi trường bụi cỏ. Kudu nhỏ tại một thời điểm được cho là một phiên bản nhỏ hơn của linh dương Kudu lớn, nhưng bây giờ được coi là một loài nguyên thủy hơn. Kudu nhỏ cao tại vai và cân nặng . Linh dương Kudu cao 1.2m-1.5m, con đực to hơn con cái, con đực nặng khoảng 224 kg-356 kg, trong khi đó con cái nặng 179.6 kg-234 kg. Kudu nhỏ sinh sống trong khu vực có bụi gai khô và rừng và chủ yếu ăn lá cây.

Chúng hoạt động về đêm và lúc chạng vạng. Chúng sống thành đàn từ 2-5 con đến 24 con. Kudu nhỏ có thể nhảy khoảng cách hơn và cao . Chúng cũng có thể chạy đến tốc độ . Khi bị đe dọa, linh dương Kudu thường làm dữ thay vì chạy trốn khỏi cuộc chiến. Chúng sẽ dùng sừng hất đối thủ thay vì đâm. Linh dương Kudu có sừng hình xoắn ốc dài, dài khoảng 1.8m. Loài linh dương này là những vận động viên và những tay đạp tuyệt vời và có thể tung vó đá bay một con chó hoang châu Phi hoặc đá trẹo cổ một con chó rừng. Tất cả loài linh dương Kudu có bờm ở trên lưng, có sọc trắng ở hai bên.

Nhiều như linh dương khác, Những con kudu đực có thể được tìm thấy trong các nhóm riêng lẻ, mục tiêu của chúng có khả năng cô độc. Sự thống trị của chúng có xu hướng không kéo dài và khá hòa bình. Đôi khi hai con đực cạnh tranh cạnh tranh bạn tình phải thông qua cách thức giải quyết là bằng sừng của chúng và đôi khi chúng hăng máu quá đến mức khóa sừng mắc dính với nhau để đọ sức bền, nếu không thể buông tha chúng sẽ chết vì đói hoặc bị mất nước. Cảnh tượng hai con linh dương móc sừng đánh nhau đến chết này là minh chứng cho một cuộc chiến nảy lửa giữa hai đối thủ nặng ký.

Con đực được cặp với con cái duy nhất trong mùa giao phối, khi chúng tham gia trong nhóm 5-15 con Kudu bao gồm con cái. Con bê phát triển rất nhanh chóng và sáu tháng là chúng sẽ độc lập tương đối với mẹ của chúng. Những con cái mang thai sẽ rời khỏi đàn để cho ra đời một đứa con duy nhất. Nó để lại cho con non nằm ẩn trong 4-5 tuần trong khi quay trở lại chỉ để chăm sóc cho nó. Sau đó bê sẽ bắt đầu gặp mẹ trong thời gian ngắn, khoảng 6 tháng chúng sẽ vĩnh viễn tham gia nhóm. Linh dương kudu sống từ 7-8 năm trong tự nhiên và khoảng 23 năm trong điều kiện giam cầm. nhỏ|Một con linh dương Kudu đang tìm nguồn nước Những con linh dương Kudu cái thường sống thành từng đàn nhỏ. Tuy nhiên, kudu đực lại có xu hướng sống đơn độc, tránh các khu vực không có cây cối hoặc cây bụi lớn bởi chúng họ chạy khá chậm nên khó trốn thoát khỏi kẻ thù trong tự nhiên như sư tử, linh cẩu, chó săn và báo. Chúng thường dựa vào những khả năng vốn có và sự xảo quyệt trong việc che giấu bản thân mình để tồn tại. Chẳng hạn như khi bị đàn linh cẩu bao vây, một số con khôn ngoan sẽ lao xuống nước hạy trốn khỏi cuộc phục kích của đàn linh cẩu và biến mất vào một đàn ngựa vằn.

Khi bị đe dọa, kudu sẽ thường làm dữ thay vì chạy trốn khỏi cuộc chiến. Con đực bị thương được biết đến khi có thể đáp lại những kẻ tấn công chúng sẽ dùng sừng hất đối thủ hay vì đâm. Một con cái bị thương có thể tiếp tục chạy mà không cần dừng lại trong vòng nhiều dặm để nghỉ ngơi trong hơn một phút. Chúng là những vận động viên và những tay đạp tuyệt vời và có thể tung vó đá bay một con chó hoang châu Phi hoặc đá trẹo cổ một con chó rừng. Chúng nhảy tốt và có thể phi qua một hàng rào 5 bộ.

Về chế độ ăn uống linh dương Kudu ăn lá và chồi. Linh dương kudu là loài động vật ăn cỏ, thức ăn của chúng phần lớn là cây cỏ, rễ cây, lá và trái cây và củ. Trong mùa khô chúng ăn dưa hấu hoang dã và trái cây khác để cung cấp chất lỏng và các loại đường tự nhiên. Các con linh dương Kudu nhỏ ít phụ thuộc vào nguồn nước hơn so với những con linh dương Kudu lớn. Chúng có thể sống sót trong một thời gian dài mà không cần uống nước. Động vật ăn thịt và các mối đe dọa từ nhiều động vật ăn thịt như mèo lớn (sư tử và báo hoa mai), chó hoang châu Phi, linh cẩu và trăn săn kudu và những con con. Linh dương Kudu bị săn bắt bởi sư tử, báo, và chó hoang. Báo đốm, mãng xà, chim đại bàng và các loài mèo hoang nhỏ thường săn linh dương kudu con. Số lượng Kudu còn bị ảnh hưởng bởi con người do nạn săn bắn lấy thịt, da và sừng, hoặc sử dụng môi trường sống của chúng cho đốt than và nông nghiệp.

Với con người

Những con Kudu rất dễ bị virus bệnh dịch trâu bò. Kudus rất dễ bị bệnh dại trong thời gian hạn hán kéo dài. Những con dực rất can đảm và đôi khi tấn công con người khi đứng quá gần chúng. Kudu lớn được hưởng lợi và phải chịu đựng từ sự tương tác với con người, chúng là một mục tiêu cho các thợ săn, vì đôi sừng lớn của chúng. Chúng cũng rất hay lảng tránh, sử dụng chiến thuật chạy khoảng cách ngắn và ẩn thay vì chỉ đơn giản là chạy trốn mà các loài linh dương châu Phi khác thường thực hiện. Con người cũng đã phá hủy bìa rừng nơi chúng sinh sống. Tuy nhiên, các giếng nước, các hệ thống thủy lợi được thiết lập bởi con người cũng đã cho phép loài kudu lớn chiếm lĩnh các lãnh thổ trước đó chúng không thể sinh sống được vì không có nước. Sừng của loài linh dương này được người Do Thái sử dụng để làm Shofars, một loại sừng nghi lễ của người Do Thái thổi tại Rosh Hashanah. Thịt kudu tương tự như thịt nai với một hương vị gan nhẹ. Nó là một loại thịt rất khô và sáp, vì vậy nó cần được nấu chín kỹ để tránh làm khô nó ra và làm cho nó dễ ăn, thịt chúng rất bổ và có hàm lượng chất béo thấp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Linh dương vằn Kudu **Linh dương vằn Kudu** hay còn gọi là **linh dương Kudu** là những loài linh dương thuộc chi Tragelaphus. Chi này hiện nay có hai loài gồm: linh dương Kudu nhỏ
**Vườn quốc gia Liwonde**, còn gọi là **Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Liwonde**, là một vườn quốc gia ở miền nam Malawi, gần biên giới Mozambique. Vườn quốc gia này được thành lập
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
**Richtersveld** là một cảnh quan sa mạc miền núi đặc trưng bởi các hẻm núi gồ ghề và núi cao. Nó nằm ​​ở góc phía tây của tỉnh Bắc Cape, Nam Phi. Nơi đây đầy
**Vườn quốc gia Awash** là một vườn quốc gia của Ethiopia. Trải dài qua mũi phía nam của vùng Afar và góc đông bắc khu vực Đông Shewa của vùng Oromia, vườn quốc gia này
**Phân họ Trâu bò** hay **phân họ Bò** (danh pháp khoa học: **_Bovinae_**) bao gồm một nhóm đa dạng của khoảng 26-30 loài động vật guốc chẵn có kích thước từ trung bình tới lớn,
thumb|Hình ảnh vệ tinh vườn quốc gia **Vườn quốc gia Etosha** là một vườn quốc gia ở tây bắc Namibia. Vườn quốc gia này được tuyên bố một khu bảo tồn săn bắn ngày 22
**_Human Planet_** là một chương trình truyền hình phim tài liệu của Anh, dài 8 tập, được sản xuất bởi đài BBC cộng tác với kênh Discovery và BBC Worldwide. Chương trình miêu tả con
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
thumb|Hình ảnh vệ tinh của Okavango từ NASA. thumb|Khu vực điển hình ở đồng bằng sông Okavango, với các con kênh, hồ, đầm lầy và đảo nổi. **Châu thổ Okavango** hay **Đồng cỏ Okavango** (trước
**Vườn quốc gia Omo** là một vườn quốc gia nằm tại Vùng Các dân tộc Phương Nam, Ethiopia. Được thành lập vào năm 1980, vườn quốc gia bảo vệ khu vực phía tây của sông
**Vườn quốc gia Kundelungu** là một vườn quốc gia nằm tại Katanga, Cộng hòa Dân chủ Congo. Được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 1970, vườn quốc gia có diện tích khoảng 7.600 km².
**_Phi vụ động trời_** (tên gốc tiếng Anh: **_Zootopia_**, hay còn được biết đến với tên **_Zootropolis_** ở một số quốc gia) là một bộ phim hoạt hình gia đình, phiêu lưu-hài kịch 3D năm
**Sở thú Bojnice**, hay còn gọi là **Vườn bách thú quốc gia Bojnice** (tiếng Slovak: _Zoologická záhrada Bojnice, Národná zoologická záhrada Bojnice_) là một sở thú (vườn thú) được khánh thành vào năm 1955 ở
**Vườn quốc gia Nechisar** là một vườn quốc gia nằm ở Vùng Các dân tộc Phương Nam của Ethiopia. Nó nằm trong Thung lũng tách giãn Lớn ở Cao nguyên tây nam Ethiopia. ## Địa
**Motown Records**, hay được biết với tên **Tamla Motown** ở bên ngoài Bắc Mỹ, là một hãng thu âm được thành lập vào tháng 12 năm 1959 tại Detroit, Michigan, Hoa Kỳ. Sáng lập bởi
**Vườn quốc gia Mikumi** là một vườn quốc gia ở Mikumi, gần Morogoro, Tanzania. Vườn quốc gia Mikumi giáp phía Nam với khu bảo tồn thú săn Selous, hai khu tạo thành một hệ sinh
**Ẩn trốn** (_Crypsis_) hay còn gọi là **ẩn tránh** hoặc **ẩn náu** hay **ẩn mình/dấu mình** là khả năng của một động vật tránh được sự quan sát hoặc phát hiện của các động vật
**Vườn quốc gia Abijatta-Shalla** là một vườn quốc gia nằm ở trên Cao nguyên Ethiopia thuộc vùng Oromia, Ethiopia. Nó nằm về phía nam thủ đô Addis Ababa khoảng 200 kilômét, phía đông của xa
[[Mount Longonot|thumb|Núi Longonot]] thumb|Phía xa là Uganda, nhìn từ làng Cherubei, Kenya. **Thung lũng Tách giãn Lớn** là một phần của hệ thống núi nội lục chạy hướng Bắc - Nam tại Kenya. Nó là
**Jeddah** (đôi khi được viết là _Jiddah_ hay _Jedda_; __ phát âm Hejaz: ) là một thành phố tại vùng Tihamah Hejaz trên bờ biển Đỏ và là một trung tâm đô thị lớn tại