Tiếng Sumer ( ) là ngôn ngữ được nói tại miền nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Thiên niên kỷ thứ 3 TCN chứng kiến sự nảy sinh và phát triển mối quan hệ cộng sinh văn hóa hết sức mật thiết giữa người Sumer và người dân Đế quốc Akkad, trong đó bao gồm việc sử dụng song ngữ Sumer và Akkad một cách rộng rãi. Tiếng Sumer sự ảnh hưởng rõ ràng lên tiếng Akkad (và ngược lại) ở mọi khía cạnh, từ sự vay mượn từ vựng trên quy mô lớn đến sự hội tụ cú pháp, hình thái và âm vị. Tuy vậy, tiếng Sumer vẫn tiếp tục giữ vai trò là ngôn ngữ thiêng liêng, ngôn ngữ trong nghi lễ, trong văn học và trong khoa học tại vùng Lưỡng Hà cho đến mãi thế kỷ 1. Từ đó, tiếng Sumer bị quên lãng cho đến thế kỷ 19 khi những nhà Assyria học bắt đầu giải mã các văn khắc chữ hình nêm và khai quật các bản ghi do những người nói tiếng Sumer bỏ lại. Tiếng Sumer là một ngôn ngữ biệt lập.
Biến thể
Các giai đoạn
Lịch sử phát triển của chữ viết Sumer có thể được chia thành các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn tiếng Sumer cổ xưa – thế kỷ 31–26 TCN
- Giai đoạn tiếng Sumer cổ điển – thế kỷ 26–23 TCN
- Giai đoạn Tân Sumer – thế kỷ 23–21 TCN
- Giai đoạn tiếng Sumer muộn – thế kỷ 20–18 TCN
- Giai đoạn Hậu Sumer – sau năm 1700 TCN
nhỏ|Bản khắc (thời kỳ Trước chữ viết) ghi lại việc chuyển nhượng đất đai. Trên bản khắc này có thể thấy bước chuyển từ việc dùng chữ tượng hình sang chữ tượng thanh. Trưng bày tại [[Bảo tàng Walters Art, Baltimore, Maryland, Hoa Kỳ. Niên đại: 3100–2900 TCN]]
Giai đoạn Sumer cổ xưa bắt đầu với thời kỳ Jemdet Nasr (Uruk III) khoảng từ thế kỷ 31 đến thế kỷ 30 TCN. Giai đoạn này nối tiếp giai đoạn Trước chữ viết (protoliterate) trải dài phỏng chừng từ thế kỷ 35 đến thế kỷ 30 TCN.
Một số cách chia giai đoạn có thể bỏ qua giai đoạn Sumer muộn và xem tất cả các văn bản được viết sau năm 2000 TCN là thuộc giai đoạn Hậu Sumer. Thuật ngữ "Hậu Sumer" dùng để chỉ thời gian mà ngôn ngữ này đã "tuyệt chủng" và chỉ còn được người Babylon và người Assyria bảo tồn như một ngôn ngữ tế lễ và cổ điển (dùng trong tôn giáo, nghệ thuật và học thuật). Từ trước đến nay, sự tuyệt chủng này thường được cho là diễn ra vào khoảng cuối Triều Ur thứ ba (quốc gia cuối cùng có đa số là người Sumer, nằm ở vùng Lưỡng Hà) khoảng năm 2000 TCN. Tuy nhiên, thời điểm này chỉ mang ý nghĩa ước chừng do có những học giả cho rằng tiếng Sumer đã chết hoặc đang tàn tạ ngay từ khoảng năm 2100 TCN, trước khi giai đoạn Ur III bắt đầu, trong khi những học giả khác lại tin rằng tiếng Sumer vẫn duy trì vai trò ngôn ngữ giao tiếp ở một vùng nhỏ thuộc miền nam Lưỡng Hà (Nippur và vùng phụ cận) cho đến tận năm 1700 TCN., mặc dù hay được dịch là "ngôn ngữ của đàn bà". (gốc từ sal có thể mang nhiều nghĩa). Eme-sal được dùng riêng bởi nhân vật nữ trong một số văn bản văn chương. Ngoài ra, eme-sal cũng chiếm ưu thế trong một số thể loại ca khúc nghi lễ nhất định. Điểm đặc biệt của eme-sal chủ yếu nằm ở mặt âm vị (chẳng hạn, m dùng thay cho ĝ trong me, khác với cách chuẩn là ĝe26, nghĩa là "tôi"). Tuy nhiên, các từ vựng khác hẳn với ngôn ngữ chuẩn cũng được dùng (chẳng hạn là ga-ša-an, so với ngôn ngữ chuẩn là nin, nghĩa là "quý bà").
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Sumer** ( ) là ngôn ngữ được nói tại miền nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Thiên niên kỷ thứ 3 TCN
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
**Tiếng Akkad** (_lišānum akkadītum_, ak.kADû) - hay **tiếng Accad**, tiếng **Assyria-Babylon** - là một ngôn ngữ không còn tồn tại thuộc nhóm Ngôn ngữ Semit (thuộc ngữ hệ Phi-Á) từng được con người ở vùng
nhỏ|Tượng của một "người Sumer cầu nguyện", Gudea, Sơ kỳ Triều đại (k. 2500 TCN) |328x328px **Tôn giáo Sumer** là tôn giáo được thực hành và thờ phụng bởi người Sumer, nền văn minh đầu
**Tiếng Ai Cập** là ngôn ngữ của Ai Cập cổ đại, thuộc ngữ hệ Phi-Á. Ngôn ngữ này được ghi nhận qua một thời kỳ rất dài, từ thời tiếng Ai Cập Cổ thời (trung
**Gilgamesh** (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, _Gilgameš_; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, _Bilgames_) là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần
nhỏ| Tên của vị vua Simurrum "Iddin-Sin" (𒀭𒄿𒋾𒀭𒂗𒍪, _I-ti-n Sîn_) với kính ngữ câm "Dingir" [[wikiwikiweb:𒀭|𒀭 nghĩa là "Thần". Biểu tượng ngôi sao 𒀭, cũng có thể được phát âm là "An", được sử dụng
**Ur** (tiếng Sumer: _Urim_; chữ hình nêm Sumer: hay ; tiếng Akkad: _Uru_; ; ) là một thành bang quan trọng của người Sumer thời Lưỡng Hà cổ đại, nằm ở nơi ngày nay là
**Abzu** hoặc **Apsu** (Chữ hình nêm: 𒀊 𒀊, ZU.AB; Tiếng Sumer: abzu; Tiếng Akkad: _apsû_, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:B015vellst.png|40x40pxliên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:B223ellst.png|33x33px), còn được gọi là **engur** (Chữ hình nêm: LAGAB × HAL; Tiếng Sumer: engur; Tiếng Akkad: _engurru_ - nghĩa
**Luật Ur-Nammu** là một bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại còn được biết đến ngày nay. Nó xuất phát từ vùng Lưỡng hà và được khắc trên các phiến đất sét nung bằng
**Tiếng Ả Rập vùng Lưỡng Hà**, còn được gọi là **tiếng Ả Rập Nam Lưỡng Hà** hay **tiếng Ả Rập Iraq**, là cụm phương ngữ tiếng Ả Rập có thể thông hiểu lẫn nhau có
**Sennacherib** (chữ hình nêm Tân Assyria: hay , có nghĩa "Sîn thế chỗ các anh") là vua của Đế quốc Tân Assyria từ khi kế vị Sargon II năm 705TCN đến khi bị giết năm
nhỏ|Các viên đất sét với [[chữ nêm từ Vương quốc Amorite Mari, nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên.]] **Amorite** (; Tiếng Sumer 𒈥𒌅 _MAR.TU_; Tiếng Akkad _Amurrūm_ or _Tidnum_; Tiếng Ai
nhỏ|Cách viết ß|413x413px **ß** (Unicode U+00DF), là ký tự thứ 22 trong bảng chữ cái tiếng Đức. Nó được đọc là **Eszett** (, lexicalized expression for **sz**) hoặc **scharfes S** (, S mạnh) trong tiếng
thế=|nhỏ|341x341px| [[Charlemagne hay Charles Đại đế (748–814) là Quốc vương của người Frank, Quốc vương của người Lombard và là Hoàng đế La Mã Thần thánh đầu tiên. Do những thành tựu quân sự và
**Đế quốc Akkad** (Tiếng Akkad: 𒆳𒌵𒆠 ; Tiếng Sumer: 𒀀𒂵𒉈𒆠 , Nghĩa đen: "vùng đất của người Akkad"; Tiếng Hebrew: אַכַּד _Akkad_) là đế quốc cổ đại đầu tiên nói tiếng
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Sơ kỳ triều đại Lưỡng Hà** hay **Các triều đại Lưỡng Hà đầu tiên** là một thời kỳ khảo cổ ở Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) thường được xác định niên đại từ c. 2900-2350
**Inanna** là một nữ thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với tình yêu, sắc đẹp, tình dục, dục vọng, sinh sản, chiến tranh, công lý và quyền lực. Bà được thờ phụng ban đầu
**Ninurta**, còn được gọi là **Ninĝirsu**, là một vị thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với nông nghiệp, chữa bệnh, săn bắn, luật pháp, kinh sư và chiến tranh, được bắt đầu thờ phụng
**Ebla** (Sumer: 𒌈𒆷 _eb₂-la,_ , hiện đại: , **Tell Mardikh**) là một trong những vương quốc cổ nhất ở Syria. Tàn tích của nó ngày nay là một gò đất nằm gần làng Mardikh cách
nhỏ|_Phiến đất sét Đại hồng thủy_ từ Sử thi Gilgamesh, lấy từ tàn tích thư viện Ashurbanipal, thế kỉ thứ 7 TCN, hiện đang trưng bày ở [[Bảo tàng Anh]] **_Sử thi Gilgamesh_** là một
**Enlil**, sau này được gọi là **Elil**, là một vị thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với gió, không khí, đất và bão. Ban đầu ông được suy tôn là vị thần tối cao
**Triều đại thứ ba của Ur,** hay còn gọi là **Đế quốc Tân-Sumer,** đề cập đến triều đại cai trị Sumer từ thế kỉ 22 đến thế kỷ 21 TCN, có lãnh thổ bao gồm
**Uruk** (; Chữ hình nêm: 𒌷𒀕 hoặc 𒌷𒀔 URU UNUG; Tiếng Sumer: _Unug;_ Tiếng Akkad: _Uruk;_ , **'; Aramaic/Hebrew: **'; , Ὀρέχ _Orekh_, __) là một thành bang cổ đại thuộc Sumer (và sau
nhỏ|200x200px| Tranh điêu khắc trên [[cổng Ishtar của Babylon |thế=]] **Tôn giáo Babylon** là các thực hành tôn giáo của Babylon cổ đại. Thần thoại Babylon bị ảnh hưởng rất lớn từ người Sumer, được
Trước khi phổ cập chữ viết, văn học truyền miệng không phải lúc nào cũng được duy trì tốt, mặc dù một số văn bản và một phần các tác phẩm đã tồn tại. thấy
thumb| Một tấm Babylon ghi lại [[sao chổi Halley vào năm 164 TCN]] **Thiên văn học Babylon** là nền thiên văn học gồm các nghiên cứu hay ghi chép của các vật thể vũ trụ
Trong thần thoại Mesopotamian, **Ereshkigal** (𒀭𒊩𒆠𒃲 , nghĩa đen "Nữ thần Đất Lớn") là nữ thần của Kur, vùng đất của người chết hoặc âm phủ trong thần thoại Sumer. Trong các huyền thoại Đông
nhỏ|300x300px| _Tháp Babel_ của [[Pieter Bruegel il Vecchio|Pieter Bruegel the Elder (1563) ]] **Tháp Babel** (, _Migdal Bavel, Burj Babil)_ là một huyền thoại Sách Sáng Thế 11:1–9, nhằm giải thích về sự bất đồng
Trong thần thoại Sumer, một **_me_** (𒈨; Tiếng Sumer: me; Tiếng Akkad: paršu) là những sắc lệnh hoặc sở hữu thiêng liêng của các vị thần, là nền tảng cho các thể chế xã hội,
**Akshak** là một thành phố của người Sumer cổ đại, nằm trên biên giới phía bắc của Akkad, đôi khi được xác định với **Upi** của Babylon (tiếng Hy Lạp là _Opis_). Vị trí chính
thumb|Công trình tái tạo lại [[Neo-Sumer Ziggurat của Ur, gần Nasiriyah, Iraq]] **Ziggurat** (còn được gọi là **tháp Ziggurat**) là một cấu trúc xây dựng cổ xưa của người Sumer thuộc vùng Lưỡng Hà, vật
nhỏ|phải|Hóa trang về Anunnaki **Anunnaki** (chữ nêm: 𒀭𒀀𒉣𒈾, còn được phát âm như **Anunaki**, hay **Annunaki**, hoặc **Anunna**, hay là **Ananaki** có nghĩa là "_dòng máu hoàng gia_" hay "_con cháu hoàng tộc_") là nhóm
nhỏ|_Nimrod_ của David Scott, 1832 **Nim-rốt** (; ; ; _an-Namrūd_) là một nhân vật trong Kinh Thánh được mô tả là một vị vua ở vùng đất Shinar (Lưỡng Hà). Theo Sách Sáng Thế và
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
**Umma** (ngày nay là _Umm al-Aqarib_, tỉnh Dhi Qar ở Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại. Có một số cuộc tranh luận học thuật về tên gọi Sumer và Akkad cho
right|thumb|[[Babylon vào thời của Hammurabi, khoảng 1792-1750 TCN]] **Eshnunna** (ngày nay là **Tell Asmar** ở tỉnh Diyala, Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại (sau là Akkad) và là thị quốc ở
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Sargon của Akkad**, cũng gọi là **Sargon Đại đế** "Đức Vua vĩ đại" (?—2279 TCN; tiếng Akkad: _Šarru-kinu_, nghĩa là "Đức Vua anh minh" hay "Đức Vua chân chính"), là một vị Hoàng đế Akkad
**Anu** hoặc **An** là dạng nhân cách hóa thần thánh của bầu trời, vị thần tối cao và tổ tiên của tất cả các vị thần trong tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại. ## Thờ
nhỏ|Con dấu hình trụ Sumer cổ đại, thể hiện cảnh thần Dumuzid bị tra tấn trong Địa ngục bởi những con quỷ _galla_ **Địa phủ Lưỡng Hà cổ đại**, (thường được biết đến trong tiếng
**Sin** hoặc **Suen** (Tiếng Akkad: 𒂗𒍪 ) hay **Nanna** (Tiếng Sumer: 𒀭𒋀𒆠 ) là vị thần Mặt trăng trong các tôn giáo Lưỡng Hà. Nanna ban đầu được người Sumer thờ phụng, và sau này
**Euphrates** (tiếng Ả Rập: , **'; Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: ; tiếng Syria: , **'; tiếng Việt: **Ơ-phơ-rát** được phiên âm từ tiếng Pháp: _Euphrate_) là con sông phía tây trong hai con sông làm
**Ngôn ngữ tách biệt** hay **ngôn ngữ cô lập**/**ngôn ngữ biệt lập** (_language isolate_), theo nghĩa tuyệt đối, là một ngôn ngữ tự nhiên không có mối quan hệ phả hệ (hoặc "di truyền") với
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
nhỏ|phải|Thần Marduk qua tranh vẽ của Henri Motte nhỏ|phải|Di vật khảo cổ về hình ảnh thần Marduk **Thần Marduk** (chữ nêm tượng hình: 𒀭𒀫𒌓; tiếng Sumer: _Amar utu.k_ nghĩa là _con bê của mặt trời_;
nhỏ|Đế chế Babylon dưới sự thống trị của người Kassites. **Người Kassite** là một dân tộc ở Cận Đông cổ đại đã chiếm được thành Babylon sau sự sụp đổ của đế quốc Cổ Babylon