✨Eshnunna

Eshnunna

right|thumb|[[Babylon vào thời của Hammurabi, khoảng 1792-1750 TCN]]

Eshnunna (ngày nay là Tell Asmar ở tỉnh Diyala, Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại (sau là Akkad) và là thị quốc ở miền trung Lưỡng Hà. Dù nằm riêng biệt ở thung lũng Diyala phía đông bắc Sumer, tuy vậy thành phố lại thuộc về một cách an toàn trong môi trường văn hóa Sumer. Vị thần giám hộ của thành phố là Tishpak (Tišpak).

Lịch sử

Bị xâm chiếm từ thời kỳ Jemdet Nasr vào khoảng năm 3000 TCN, Eshnunna là một thành phố lớn trong thời kỳ Tiền Triều đại. Bắt đầu với sự trỗi dậy của Đế quốc Akkad, Eshnunna bị dao động giữa thời gian độc lập và thống trị của các đế quốc như Triều đại thứ ba của Ur và Isin. Do nắm quyền kiểm soát đối với các tuyến đường thương mại hấp dẫn, Eshnunna đã phần nào hoạt động như một cửa ngõ giữa Lưỡng Hà và văn hóa Elamite. Các tuyến đường thương mại giúp thị quốc này tiếp cận được nhiều mặt hàng ngoại lai ưa thích như ngựa từ miền Bắc, đồng, thiếc, cùng các kim loại và đá quý khác. Người ta còn tìm thấy một cái hoa tai làm bằng nhựa copan từ Zanzibar trong một ngôi mộ cổ tại đây.

Sau khi nổi lên thành một quốc gia độc lập vào đầu thiên niên kỷ thứ hai, dưới thời vua Shamshi-Adad, Eshnunna đã bị người Elam chiếm đóng, sau đó bị Hammurabi của Babylon chinh phục vào năm thứ 38 của triều đại ông, rồi được gộp vào trong Đế quốc Cổ Babylon (đôi khi được gọi là Triều đại Babylon thứ nhất). Sau đó, thành phố xuất hiện nhưng hiếm khi được nhắc đến trong nguồn thư tịch chữ hình nêm, phản ánh một sự suy giảm có thể xảy ra và biến mất đột ngột.

Khảo cổ học

Những phần còn lại của thành phố cổ bây giờ được bảo quản tại gò của Tell Asmar, cách khoảng 38 km theo đường thẳng về phía đông bắc Baghdad và 30 km theo đường thẳng về phía đông nam Baqubah, do nhóm nghiên cứu của Viện Đông phương thuộc Đại học Chicago dưới sự lãnh đạo của Henri Frankfort với Thorkild Jacobsen và Seton Lloyd tiến hành khai quật qua sáu đợt từ năm 1930 đến 1936.

Mặc dù thời gian trôi qua quá lâu kể từ đợt khai quật tại Tell Asmar, công tác kiểm tra và công bố những phát hiện còn lại từ việc đào bới vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Những phát hiện bao gồm khoảng 1500 bảng chữ hình nêm. Vào cuối thập niên 1990, các nhà khảo cổ Iraq làm việc tại Tell Asmar. Những kết quả từ cuộc khai quật vẫn chưa được công bố.

Bộ luật Eshnunna

Bộ luật Eshnunna bao gồm hai bảng văn khắc, được tìm thấy tại Shaduppum (Tell Harmal) và một mảnh tìm thấy tại Tell Haddad, tức Mê-Turan thời cổ đại. Chúng được viết vào khoảng thời trị vì của vua Dadusha của Eshnunna và dường như không có bản chính thức. Bộ luật thực sự được biên soạn vào lúc nào thì vẫn chưa rõ. Chúng tương tự như Bộ luật Hammurabi.

Quảng trường Đền của Abu

Trong suốt thời kỳ Triều đại đầu tiên, ngôi đền Abu tại Tell Asmar (Eshnunna) đã trải qua một số giai đoạn. Bao gồm Điện thờ Archaic Triều đại đầu tiên, Quảng trường Đền và một cái miếu thờ đơn lẻ đang trong giai đoạn xây dựng. Chúng cùng với công trình điêu khắc được tìm thấy ở đó đã giúp hình thành nên cơ sở cho ba phần tách biệt về mặt khảo cổ học của thời kỳ Triều đại đầu tiên thành ED I, ED II, III và ED cho vùng Cận Đông cổ đại. Một nơi cất giữ 12 tác phẩm điêu khắc thạch cao theo một phong cách hình học được tìm thấy ở Quảng trường Đền. Chúng là một trong số những ví dụ nổi tiếng nhất về điêu khắc của vùng Cận Đông cổ đại.

Nhà cai trị Eshnunna

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|[[Babylon vào thời của Hammurabi, khoảng 1792-1750 TCN]] **Eshnunna** (ngày nay là **Tell Asmar** ở tỉnh Diyala, Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại (sau là Akkad) và là thị quốc ở
**Bộ luật Eshnunna** là các câu văn khắc trên hai phiến đá được tìm thấy tại Tell Abū Harmal, gần Baghdad, Iraq, hiện được lưu giữ trong Viện Bảo tàng Quốc gia Iraq với ký
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Triều đại thứ ba của Ur,** hay còn gọi là **Đế quốc Tân-Sumer,** đề cập đến triều đại cai trị Sumer từ thế kỉ 22 đến thế kỷ 21 TCN, có lãnh thổ bao gồm
**Inanna** là một nữ thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với tình yêu, sắc đẹp, tình dục, dục vọng, sinh sản, chiến tranh, công lý và quyền lực. Bà được thờ phụng ban đầu
**Enheduanna** (Sumer: 𒂗𒃶𒌌𒀭𒈾 cũng được phiên âm là _Enheduana,_ _En-hedu-ana,_ hoặc biến thể; sống khoảng thế kỷ 23 TCN), là nhà thơ, nữ tu sĩ ở Lưỡng Hà cổ đại và là tác giả đầu
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
nhỏ|Văn bản khắc trên bia đá của bộ luật Hammurabi. nhỏ|phải|Phần trên của bia đá chứa bộ luật Hammurabi. nhỏ|Mặt sau của bia đá. **Bộ luật Hammurabi** (**_Codex Hammurabi_**) là văn bản luật cổ nhất
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Hammurabi** (phiên âm tiếng Akkad từ tiếng Amorite ˤ_Ammurāpi_; 1810 trước Công nguyên - 1750 trước Công nguyên) là vị vua thứ sáu của Babylon. Ông là vua đầu tiên của Đế quốc Babylon, dưới
**Bệnh dại** () là một căn bệnh do virus gây ra viêm não ở người và động vật có vú khác. Thủ phạm gây bệnh dại là các loại _Lyssavirus_ bao gồm virus dại và
**Samsu-Iluna (Samsuiluna)**(khoảng 1792 - 1712 TCN), là vua của Babylon từ 1750 - 1712 TCN. Ông là con trai của Hammurabi, sử sách không nhắc đến mẹ ông. Triều đại của ông được đánh dấu
thumb|Một hệ thống đường ống thép cứng và van khóa phức tạp điều chỉnh lưu lượng đến các khu vực khác nhau của [[tòa nhà, với sự ưu tiên rõ ràng cho các đường ống
Trước khi phổ cập chữ viết, văn học truyền miệng không phải lúc nào cũng được duy trì tốt, mặc dù một số văn bản và một phần các tác phẩm đã tồn tại. thấy
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
Các thành phố đầu tiên trong lịch sử đã được biết cho đến nay nằm ở vùng Cận Đông cổ đại, khu vực bao gồm phần lớn vùng Trung Đông hiện đại: có lịch sử
**Đế chế Babylon Cổ**, hay **Đế chế Babylon thứ nhất**, là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad tại nam Lưỡng Hà (nay là Iraq), tồn tại trong k. 1894 TCN - k. 1595