nhỏ|Tượng của một "người Sumer cầu nguyện", Gudea, Sơ kỳ Triều đại (k. 2500 TCN) |328x328px
Tôn giáo Sumer là tôn giáo được thực hành và thờ phụng bởi người Sumer, nền văn minh đầu tiên có chữ viết ở Lưỡng Hà cổ đại. Người Sumer coi các vị thần của họ là người chịu trách nhiệm cho tất cả các vấn đề liên quan đến các trật tự tự nhiên và xã hội.
Trước khi xuất hiện vương quyền ở Sumer, các thành bang được cai trị một cách hiệu quả bởi các tu sĩ và chức sắc tôn giáo. Sau đó, vai trò này dần dần bị thay thế bởi các vị vua, nhưng các tu sĩ vẫn có ảnh hưởng lớn đến xã hội Sumer. Thời kỳ đầu, các ngôi đền Sumer là những công trình có cấu trúc một phòng đơn giản, thường được xây dựng trên nền đất cao. Đến thời kỳ cuối của nền văn minh Sumer, những ngôi đền này đã phát triển thành các ziggurat, cấu trúc cao dạng kim tự tháp với nơi thờ tự ở trên đỉnh.
Người Sumer tin rằng vũ trụ được sinh ra từ các thực thể khởi thủy. Đầu tiên, Nammu, vùng biển nguyên thủy, sinh ra An (trời) và Ki (đất). Hai người giao phối và sinh ra Enlil. Enlil tách trời ra khỏi đất và trị vì mặt đất. Con người được cho là tạo ra bởi Enki, con trai của An và Nammu. Thiên giới chỉ dành riêng cho các vị thần còn tất cả linh hồn của người phàm sau khi chết, bất kể hành vi của họ khi còn sống, được cho là đi xuống Kur, một hang động tối tăm, lạnh lẽo nằm sâu dưới lòng đất, được cai trị bởi nữ thần Ereshkigal và loại thức ăn duy nhất ở đó là bụi đất. Sau này, Ereshkigal được cho là cai trị cùng với chồng là thần chết Nergal.
Các vị thần chính trong hệ thống thần Sumer bao gồm: An, thần của thiên giới; Enlil, thần gió và bão; Enki, thần nước và văn hóa nhân loại, Ninhursag, nữ thần đất và sinh sản, Utu, thần của mặt trời và công lý, và cha của ông Nanna, thần mặt trăng. Kể từ thời Akkad trở về sau, Inanna, nữ thần tình dục, sắc đẹp và chiến tranh, được tôn sùng rộng rãi trên khắp Sumer và xuất hiện trong nhiều huyền thoại, bao gồm cả truyền thuyết nổi tiếng về việc bà đi xuống Địa ngục.
Tôn giáo Sumer có ảnh hưởng lớn đến niềm tin tôn giáo của các dân tộc Lưỡng Hà sau này; nhiều yếu tố của nó được lưu giữ trong các thần thoại và tôn giáo của người Hurri, người Akkad, người Babylon, người Assyria và các nhóm văn hóa Trung Đông khác. Nhiều học giả đã nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa những câu chuyện của người Sumer cổ đại và những ghi chép sau này trong phần đầu của Kinh thánh tiếng Do Thái.
Thờ phụng
trái|nhỏ|225x225px| Bài thánh ca [[chữ hình nêm từ thế kỷ 19 TCN; dâng lên Lugal Iddin-Dagan của Larsa ]]
Chữ viết
Thần thoại Sumer được truyền miêng qua nhiều thế hệ cho đến khi phát minh ra chữ viết. Truyền thuyết đầu tiên trên thế giới được phát hiện cho đến nay, Sử thi Gilgamesh, là thần thoại Sumer được ghi chép trên các phiến đất sét). Ban đầu, chữ hình nêm Sumer được sử dụng chủ yếu như một công cụ lưu giữ hồ sơ; mãi đến cuối sơ kỳ triều đại, các tác phẩm văn học tôn giáo mới trở nên thịnh hành, như những bài thánh ca trong đền thờ hay như một dạng "bùa chú" được gọi là nam-šub (tiền tố + "niệm chú"). Chúng thường được khắc bằng dùi nhọn trên các phiến đá hoặc đất sét.
Kiến trúc
nhỏ|Đề xuất mô phỏng cấu trúc ziggurat
Ở các thành bang Sumer, các quần thể đền thờ ban đầu là những cấu trúc một phòng nhỏ và cao. Trong thời kỳ đầu triều đại, các ngôi đền phát triển thành dạng bậc thang và chia làm nhiều phòng. Đến giai đoạn cuối nền văn minh Sumer, ziggurat trở thành cấu trúc đền thờ phổ biến tại các trung tâm tôn giáo Lưỡng Hà. Các đền thờ đóng vai trò là trụ sở văn hóa, tôn giáo và chính trị cho đến khoảng năm 2500 trước Công nguyên, với sự trỗi dậy của các vị vua tướng lĩnh được gọi là Lu-gal ("ông"-"lớn"). Mái vòm úp lên trên mặt đất. Bên dưới mặt đất là địa phủ và vùng biển nước ngọt gọi là Apsû. Vị thần của vòm trời là An; vị thần của mặt đất là Ki. Ban đầu thế giới dưới lòng đất được cho là một phần mở rộng của nữ thần Ki, nhưng sau này đã dần phát triển khái niệm về Địa phủ Kur. Biển nước mặn nguyên thủy được đặt tên là Nammu, đến thời phục hưng hưng Sumer trở đi thì được biết đến như là Tiamat.
Truyền thuyết sáng thế
Nguồn thông tin chính về huyền thoại sáng tạo Sumer là từ phần mở đầu của sử thi Gilgamesh, Enkidu, và Cõi âm, có một đoạn mô tả ngắn gọn quá trình sáng tạo: ban đầu, chỉ có Nammu, biển nguyên sinh. Mỗi mái vòm được làm từ một loại đá quý khác nhau. Mái vòm giữa của thiên đường được làm bằng đá saggilmut và là nơi ở của các vị thần thiên giới. Các thiên thể cũng được đồng hóa với các vị thần cụ thể. Mặt trời là anh trai bà, Utu, thần công lý, linh hồn của họ sau khi chết sẽ xuống Kur (sau này gọi là Irkalla), một thế giới ngầm đen tối, nằm sâu bên dưới mặt đất.
Kiếp sau
nhỏ| Ấn con dấu hình trụ của người Sumer cổ đại cho thấy vị thần [[Dumuzid bị tra tấn trong Địa ngục bởi những con quỷ galla ]]
Thế giới bên kia của người Sumer là một hang động tối tăm, buồn tẻ nằm sâu dưới lòng đất, nơi người dân được cho là tiếp tục "một phiên bản bóng tối của cuộc sống trên trái đất". Người Sumer ban đầu thực hành một tôn giáo đa thần, với các vị thần được nhân hóa đại diện cho các lực lượng vũ trụ và mặt đất trong thế giới của họ.
Vào giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên, xã hội Sumer ngày càng đô thị hóa.
Vào cuối những năm 2000 trước Công nguyên, người Sumer đã bị người Akkad chinh phục. ]]
Phần lớn các vị thần Sumer được gọi là Anunna ([hậu duệ] của An), còn bảy vị thần lớn, bao gồm cả Enlil và Inanna, là những người có tư cách "phán quan Địa phủ" được gọi là Anunnaki ([hậu duệ] của An + Ki). Trong triều đại thứ ba của Ur, hệ thống thần linh Sumer được cho là bao gồm sáu mươi lần sáu mươi (3600) vị thần. cũng là vị thần chính của Sumer và thần bảo trợ của thành phố Nippur. Người phối ngẫu chính của ông là Ninlil, nữ thần của gió nam,, một trong những vị thần đầu tiên của Nippur và được cho là cư ngụ trong cùng một ngôi đền với Enlil. Ninurta là con trai của Enlil và Ninlil, là thần chiến tranh, nông nghiệp và là một trong những vị thần gió của người Sumer. Ông là vị thần bảo trợ của Girsu và là một trong những vị thần bảo trợ của Lagash.
Enki là thần nước ngọt, khả năng sinh sản của nam giới và kiến thức. ]]
Inanna là nữ thần tình yêu, tình dục, mại dâm và chiến tranh của người Sumer. Có nhiều truyền thuyết khác nhau về cha mẹ của bà;
Utu là thần mặt trời, có trung tâm thờ phụng chính là ngôi đền E-babbar ở Sippar. Utu chủ yếu được coi là vị thần ban phát công lý; Ông cũng có thể là cha của Inanna và Ereshkigal. Ningal là vợ của Nanna, và có thể là mẹ của Utu, Inanna và Ereshkigal.
Ereshkigal là nữ thần của thế giới ngầm Sumer, được biết đến với cái tên Kur. Trong các huyền thoại sau này, chồng bà là thần chết Nergal. và là vị thần bảo trợ ban đầu của Uruk.
Di sản
Người Akkad
nhỏ| Bức phù điêu bằng đá của [[Assyria|người Assyria từ đền thờ Ninurta tại Kalhu, cho thấy một vị thần cầmi những tia sét truy đuổi Anzû, kẻ đã đánh cắp Phiến đá Định mệnh từ Thánh địa của Enlil Nhiều vị thần Sumer đã phát triển thành các phiên bản Akkad tương đương. Một số thì vẫn gần như giữ nguyên cho đến thời kỳ Babylon và Assyria. Ví dụ, vị thần Sumer An đã trở thành Anu của Akkad; Enki trở thành Ea. Các vị thần Ninurta và Enlil giữ nguyên tên gốc Sumer của họ.
Người Babylon
Dân tộc Amorite của Babylon đã giành quyền thống trị ở miền nam Mesopotamia vào giữa thế kỷ 17 trước Công nguyên. Trong thời kỳ Cựu Babylon, ngôn ngữ Sumer và Akkad được giữ gìn cho mục đích tôn giáo; phần lớn các tài liệu thần thoại Sumer được các nhà sử học biết đến ngày nay xuất phát từ Thời kỳ Cựu Babylon,
Tương đồng trong các tôn giáo khác
Một số câu chuyện được ghi lại trong các phần cũ của Kinh thánh tiếng Do Thái có những điểm tương đồng mạnh mẽ với những câu chuyện trong thần thoại Sumer. Ví dụ, câu chuyện Nô-ê và trận đại hồng thủy tương tự như huyền thoại người sống sót của Sumer. Địa phủ Do Thái Sheol rất giống với mô tả của người Sumer về Kur, được cai trị bởi nữ thần Ereshkigal, cũng như địa phủ của người Babylon Irkalla. Học giả Sumer Samuel Noah Kramer cũng đã lưu ý những điểm tương đồng giữa nhiều "tục ngữ" của người Sumer và Akkad và những câu tục ngữ tiếng Do Thái sau này, nhiều trong số đó được viết trong Sách Châm ngôn.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Tượng của một "người Sumer cầu nguyện", Gudea, Sơ kỳ Triều đại (k. 2500 TCN) |328x328px **Tôn giáo Sumer** là tôn giáo được thực hành và thờ phụng bởi người Sumer, nền văn minh đầu
**Tôn giáo Lưỡng Hà** chỉ các tín ngưỡng và tập tục tôn giáo của các nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại, cụ thể là Sumer, Akkad, Assyria và Babylonia trong khoảng năm 3500 trước
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
nhỏ|200x200px| Tranh điêu khắc trên [[cổng Ishtar của Babylon |thế=]] **Tôn giáo Babylon** là các thực hành tôn giáo của Babylon cổ đại. Thần thoại Babylon bị ảnh hưởng rất lớn từ người Sumer, được
**Tiếng Sumer** ( ) là ngôn ngữ được nói tại miền nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Thiên niên kỷ thứ 3 TCN
nhỏ|phải|Tượng thờ _[[Ngọc hoàng Thượng đế_ (Xích Đế) tại chùa Long Thạnh, biểu hiện cho tín ngưỡng thờ Thiên (thờ Trời) của chúng sinh]] **Thờ thiên thể** hay **thờ cúng các thiên thể** (_Worship of
nhỏ|Sách _Mitologia Comparata (Thần thoại đối chiếu)_ năm 1887 bằng [[tiếng Ý]] **Thần thoại học** (tiếng Hy Lạp: _μυθολογία_ ghép từ _μῦθος_ - "thần thoại" hay "truyền thuyết" và _λόγος_ - "lời nói", "câu chuyện",
nhỏ| Tên của vị vua Simurrum "Iddin-Sin" (𒀭𒄿𒋾𒀭𒂗𒍪, _I-ti-n Sîn_) với kính ngữ câm "Dingir" [[wikiwikiweb:𒀭|𒀭 nghĩa là "Thần". Biểu tượng ngôi sao 𒀭, cũng có thể được phát âm là "An", được sử dụng
**Anu** hoặc **An** là dạng nhân cách hóa thần thánh của bầu trời, vị thần tối cao và tổ tiên của tất cả các vị thần trong tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại. ## Thờ
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
**Ngôi sao năm cánh** hay **sao năm cánh** là hình tạo từ năm điểm của một hình ngũ giác đều cùng với năm đường thẳng nối các đỉnh đó. Ngôi sao của quốc kỳ Việt
nhỏ|phải|Tượng Phật với vầng hào quang ngũ sắc còn gọi là Phật Quang **Vầng hào quang** (từ tiếng Hy Lạp là ἅλως, _halōs_; còn được gọi là _Nimbus_, _Aureole_, vầng vinh quang) là hình dạng
nhỏ|phải|Tranh vẽ cảnh quỷ ám **Quỷ ám** là một hệ thống niềm tin cho rằng một cá nhân bị một thực thể siêu nhiên ác độc nhập hồn, thường gọi là ác quỷ. Các biểu
**Inanna** là một nữ thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với tình yêu, sắc đẹp, tình dục, dục vọng, sinh sản, chiến tranh, công lý và quyền lực. Bà được thờ phụng ban đầu
**Triều đại thứ ba của Ur,** hay còn gọi là **Đế quốc Tân-Sumer,** đề cập đến triều đại cai trị Sumer từ thế kỉ 22 đến thế kỷ 21 TCN, có lãnh thổ bao gồm
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
right|thumb|Vào thời của [[Hammurabi, Lagash nằm gần bờ biển của vịnh Ba Tư.]] thumb|Một cái bình khắc [[chữ hình nêm của Entemena (Louvre)]] thumb|[[Gudea của Lagash, tượng bằng diorit được tìm thấy tại Girsu (Louvre)]]
nhỏ|_Nimrod_ của David Scott, 1832 **Nim-rốt** (; ; ; _an-Namrūd_) là một nhân vật trong Kinh Thánh được mô tả là một vị vua ở vùng đất Shinar (Lưỡng Hà). Theo Sách Sáng Thế và
**_The Sirius Mystery_** là cuốn sách phi hư cấu của Robert K. G. Temple ủng hộ giả thuyết ngụy khoa học về nhà du hành vũ trụ cổ rằng sinh vật thông minh ngoài hành
**Kisurra** (nay là **Tell Abu Hatab**, Al-Qādisiyyah, Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại nằm trên bờ phía tây của sông Euphrates, 7 km (4,3 dặm) về phía bắc Shuruppak. Tên gọi của
**Girsu** (chữ hình nêm: 𒄈𒋢𒆠; Sumer:Ĝirsu; Akkad:_?_) ngày nay là **Tell Telloh**, tỉnh Dhi Qar, Iraq, và là một thành phố của người Sumer cổ đại, nằm khoảng 25 km (16 dặm) về phía tây bắc
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Syria** ( hoặc ), quốc hiệu là **Cộng hoà Ả Rập Syria** () là một quốc gia ở Tây Á, giáp với Liban và Địa Trung Hải ở phía tây, Thổ Nhĩ Kỳ ở phía
**Louis Whitley Strieber** (; sinh ngày 13 tháng 6 năm 1945) là nhà văn Mỹ nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết kinh dị _The Wolfen_ và _The Hunger_ và với _Communion_, tác phẩm phi
nhỏ|phải|Đại hồng thủy (Kitô giáo) **Đại hồng thủy** (hay **hồng thủy**) là đại thảm họa khủng khiếp được nhắc đến trong truyền thuyết của nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc trên thế giới. Nó
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Ebla** (Sumer: 𒌈𒆷 _eb₂-la,_ , hiện đại: , **Tell Mardikh**) là một trong những vương quốc cổ nhất ở Syria. Tàn tích của nó ngày nay là một gò đất nằm gần làng Mardikh cách
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
**Đế quốc Akkad** (Tiếng Akkad: 𒆳𒌵𒆠 ; Tiếng Sumer: 𒀀𒂵𒉈𒆠 , Nghĩa đen: "vùng đất của người Akkad"; Tiếng Hebrew: אַכַּד _Akkad_) là đế quốc cổ đại đầu tiên nói tiếng
nhỏ|_Phiến đất sét Đại hồng thủy_ từ Sử thi Gilgamesh, lấy từ tàn tích thư viện Ashurbanipal, thế kỉ thứ 7 TCN, hiện đang trưng bày ở [[Bảo tàng Anh]] **_Sử thi Gilgamesh_** là một
Thần [[Khorsabad. Hiện vật bảo tàng Louvre.]] Vùng **Cận Đông cổ đại** là quê hương của các nền văn minh sơ khai thời cổ đại trong khu vực gần tương ứng với vùng Trung Đông
**Gilgamesh** (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, _Gilgameš_; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, _Bilgames_) là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
phải|Biên lai bia Alulu – một biên lai chứng nhận việc mua bia "tốt nhất" vào năm 2050 TCN từ thành phố cổ [[Ur của người Sumer, Iraq cổ đại.]] **Bia** là một trong những
**Enki** (; Sumer: 𒂗𒆠) là một vị thần Sumer của nước, kiến thức _(gestú),_ trò tinh quái, thủ công _(gašam),_ và sáng tạo _(nudimmud),_ và một trong những Anunnaki (phán quan). Sau này ông được
Ziggurat **Lưỡng Hà** (_Mesopotamia_) là một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây Á, ngày nay là miền nam của Iraq. ## Giai đoạn 4000 năm trước Công nguyên Các
**Sơ kỳ triều đại Lưỡng Hà** hay **Các triều đại Lưỡng Hà đầu tiên** là một thời kỳ khảo cổ ở Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) thường được xác định niên đại từ c. 2900-2350
nhỏ|Thần thoại Lưỡng Hà **Thần thoại Lưỡng Hà** bao gồm các thần thoại, văn bản tôn giáo và các tác phẩm văn học khác đến từ khu vực Lưỡng Hà cổ đại ở Tây Á
Trong thần thoại Sumer, một **_me_** (𒈨; Tiếng Sumer: me; Tiếng Akkad: paršu) là những sắc lệnh hoặc sở hữu thiêng liêng của các vị thần, là nền tảng cho các thể chế xã hội,
nhỏ|_[[The Dying Gaul|Dying Gaul_, hay _Capitoline Gaul_ một bản sao bằng đá cẩm thạch La Mã của một công trình Hy Lạp hóa cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên Bảo tàng Capitoline, Rome]]
**Aphrodite** (Việt hóa: **Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ**, , phát âm tiếng Hy Lạp Attica: , tiếng Hy Lạp Koine , ) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, tình dục, sắc đẹp, niềm
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
thumb|[[Annie Kenney và Christabel Pankhurst đang vận động cho quyền bầu cử của phụ nữ]] **Nữ quyền**, tức **quyền nữ giới** hay **quyền phụ nữ**, là các quyền lợi bình đẳng giới được khẳng định
**Lịch sử của lịch** được xem xét từ những phương pháp có nguồn gốc cổ xưa, khi mà con người tạo ra và sử dụng các phương pháp khác nhau để theo dõi các ngày
nhỏ|phải|Hóa trang về Anunnaki **Anunnaki** (chữ nêm: 𒀭𒀀𒉣𒈾, còn được phát âm như **Anunaki**, hay **Annunaki**, hoặc **Anunna**, hay là **Ananaki** có nghĩa là "_dòng máu hoàng gia_" hay "_con cháu hoàng tộc_") là nhóm
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
Trong thần thoại Mesopotamian, **Ereshkigal** (𒀭𒊩𒆠𒃲 , nghĩa đen "Nữ thần Đất Lớn") là nữ thần của Kur, vùng đất của người chết hoặc âm phủ trong thần thoại Sumer. Trong các huyền thoại Đông
**Đế chế Babylon Cổ**, hay **Đế chế Babylon thứ nhất**, là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad tại nam Lưỡng Hà (nay là Iraq), tồn tại trong k. 1894 TCN - k. 1595