right|thumb|Vào thời của [[Hammurabi, Lagash nằm gần bờ biển của vịnh Ba Tư.]]
thumb|Một cái bình khắc [[chữ hình nêm của Entemena (Louvre)]]
thumb|[[Gudea của Lagash, tượng bằng diorit được tìm thấy tại Girsu (Louvre)]]
Lagash là một thành phố của người Sumer cổ đại nằm ở phía tây bắc ngã ba của sông Euphrates và Tigris và phía đông Uruk, khoảng 22 km (14 dặm) về phía đông của thành phố ngày nay là Ash Shatrah, Iraq. Lagash là một trong những thành phố lâu đời nhất ở vùng Cận Đông cổ đại. Vị trí cổ đại của Surghul/Nina là khoảng 6 dặm (9,7 km). Girsu gần đó, khoảng 25 km (16 dặm) về phía tây bắc của Al-Hiba, là trung tâm tôn giáo của thị quốc Lagash. Đền thờ của Lagash là E-Ninnu, dành riêng cho thần Ningirsu.
Lịch sử
Từ những dòng chữ khắc được tìm thấy ở Girsu như các trụ đá Gudea đã cho thấy Lagash là một thành phố quan trọng của người Sumer vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Thành phố thời điểm đó được cai trị bởi vị vua độc lập, Ur-Nanshe (thế kỷ 24 TCN) và người kế nhiệm ông đã tham gia vào những trận giao tranh với người Elam ở phía đông và các vua "Kienĝir" và Kish ở phía bắc. Một số công trình xa xưa có từ trước cuộc chinh phục của người Akkad cũng rất thú vị, đặc biệt là Bia Kền kền của Eannatum và cái bình bạc lớn của Entemena được trang trí với con vật linh thiêng của Ningirsu là Anzu: một con đại bàng đầu sư tử với đôi cánh dang ra, dang quắp lấy một con sư tử trong mỗi móng vuốt. Với cuộc chinh phục của người Akkad mà Lagash đã đánh mất nền độc lập, người cai trị hoặc ensi của Lagash trở thành một chư hầu của Sargon xứ Akkad và những người kế nhiệm ông; nhưng Lagash tiếp tục là một thành phố có nhiều tầm quan trọng và trên hết là một trung tâm phát triển nghệ thuật.
Sau khi nhà nước của Sargon sụp đổ, Lagash lại phát triển mạnh dưới các đời vua độc lập (Ensis), Ur-Bau và Gudea và có sự giao thiệp thương mại rộng rãi với nước xa xôi. Theo sử liệu về mình, Gudea đưa cây hương từ Amanus và dãy núi Liban ở Syria, điorit từ miền đông Saudi, đồng và vàng từ miền trung và miền nam Ả Rập, trong khi quân đội của ông đã tham gia vào các trận chiến với người Elam ở phía đông. Triều đại của ông có dấu ấn đặc trưng vì là thời đại phát triển nghệ thuật. Thậm chí một ý tưởng khá tốt về những gì trông giống như Gudea, kể từ khi ông đặt trong các đền thờ trong thành phố nhiều bức tượng hoặc tượng thần miêu tả bản thân với hiện thực sống động như thật (Tượng Gudea). Vào thời của Gudea, thủ đô của Lagash thực sự nằm ở Girsu. Vương quốc bao phủ một diện tích khoảng 1.600 km vuông (620 sq mi). Nó bao gồm 17 thành phố lớn, tám thị trấn huyện lỵ, và nhiều làng mạc (khoảng 40 được gọi theo tên). Theo một ước tính, Lagash là thành phố lớn nhất thế giới từ khoảng 2075 đến 2030 TCN.
Ngay sau thời kỳ của Gudea, Lagash đã bị gộp vào nhà nước Ur III như là một trong những tỉnh hàng đầu của nó. Có một số thông tin về khu vực này trong thời kỳ Cổ Babylon. Sau đó nó dường như đã mất đi tầm quan trọng thiết yếu và biến mất trong một khoảng thời gian dài cho tới khi việc xây dựng các pháo đài của nhà Seleukos được đề cập, khi nó dường như đã trở thành một phần của Vương quốc Characene của Hy Lạp.
Xung đột với Umma
Vào khoảng năm 2450 TCN, Lagash và thành phố láng giềng Umma có đánh lẫn nhau sau một cuộc tranh chấp biên giới. Theo như mô tả trong Bia Kền kền thì vị vua hiện tại của Lagash là Eannatum, lấy cảm hứng từ thần bảo trợ của thành phố Ningirsu, bắt đầu mang quân đánh bại thành phố gần đó. Những chi tiết ban đầu của cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng, nhưng tấm bia có thể miêu tả một vài chi tiết mơ hồ về sự kiện này. Theo những hình khắc của tấm bia thì khi hai bên gặp nhau trên chiến trường, Eannatum đã bước xuống cỗ chiến xa của mình và dẫn đầu hàng quân tiến lên. Sau khi hạ thấp những ngọn giáo, quân Lagash liền xông vào hàng ngũ quân Umma theo đội hình Phalanx dày đặc. Sau một cuộc đụng độ ngắn ngủi, Eannatum và quân của ông đã giành được chiến thắng trước đội quân của Umma. Dù bị tên bắn trúng mắt, vua của Lagash vẫn còn sống để tận hưởng chiến thắng của quân mình. Cuộc chiến này là một trong những trận đánh có tổ chức sớm nhất được biết đến với giới học giả và sử gia.
Các triều đại của Lagash
Những triều đại này không được tìm thấy trên bảng danh sách vua Sumer dù một mảnh vỡ bổ sung rất rời rạc đã được tìm thấy tại Sumer, gọi là những người cai trị Lagash. Nó còn nhớ như in sau trận lụt nhân loại đã gặp khó khăn trong việc trồng thực phẩm, bị lệ thuộc hoàn toàn vào nước mưa; ngoài ra còn có liên quan đến kỹ thuật thủy lợi và canh tác lúa mạch được truyền đạt bởi các vị thần. Vào cuối bảng danh sách là tuyên bố "viết trong trường học", cho thấy đây là một loại trường đào tạo người sao chép bản thảo. Một vài trong số những cái tên từ các nhà lãnh đạo Lagash liệt kê dưới đây có thể được thực hiện bao gồm Ur-Nanshe, "Ane-tum", En-entar-zid, Ur-Ningirsu, Ur-Bau, và Gudea.
Triều đại thứ nhất của Lagash
Triều đại thứ hai của Lagash
Khảo cổ học
Lagash là một trong những gò khảo cổ học lớn nhất trong khu vực, đo khoảng 2 1 dặm (3,2 1,6 km). Ước tính diện tích của nó nằm trong khoảng 400-600 ha (990 đến 1,480 mẫu Anh). Địa điểm này được chia bởi nền của một con kênh/sông, chạy theo đường chéo qua gò. Di chỉ này lần đầu tiên được Robert Koldewey khai quật trong sáu tuần vào năm 1887. Nó còn được kiểm tra trong một đợt khảo sát khu vực của Thorkild Jacobsen và Fuad Safar vào năm 1953, việc tìm kiếm bằng chứng đầu tiên nhận dạng tên gọi của nó là Lagash. Chính thể chủ yếu trong vùng al-Hiba và Tello trước đây được xác định là ŠIR.BUR.LA (Shirpurla). Tell Al-Hiba lại được khám phá một lần nữa trong năm đợt khai quật từ năm 1968 đến năm 1976 bởi một nhóm từ Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan và Viện Mỹ thuật của Đại học New York. Nhóm nghiên cứu dưới sự dẫn đầu của Vaughn E. Crawford và bao gồm cả Donald P. Hansen và Robert D. Biggs. Mục tiêu chính là khai quật ngôi đền Ibgal của Inanna và đền thờ Bagara của Ningirsu, cũng như một khu vực hành chính có liên quan.
Nhóm nghiên cứu quay trở lại 12 năm sau đó vào năm 1990 cho một đợt khai quật cuối cùng do DP Hansen tiến hành. Công việc chủ yếu liên quan đến khu vực liền kề với một ngôi đền vẫn chưa được khai quật. Kết quả của hoạt động khai quật năm nay dường như chưa được công bố.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|Vào thời của [[Hammurabi, Lagash nằm gần bờ biển của vịnh Ba Tư.]] thumb|Một cái bình khắc [[chữ hình nêm của Entemena (Louvre)]] thumb|[[Gudea của Lagash, tượng bằng diorit được tìm thấy tại Girsu (Louvre)]]
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
**Đế quốc Akkad** (Tiếng Akkad: 𒆳𒌵𒆠 ; Tiếng Sumer: 𒀀𒂵𒉈𒆠 , Nghĩa đen: "vùng đất của người Akkad"; Tiếng Hebrew: אַכַּד _Akkad_) là đế quốc cổ đại đầu tiên nói tiếng
**Girsu** (chữ hình nêm: 𒄈𒋢𒆠; Sumer:Ĝirsu; Akkad:_?_) ngày nay là **Tell Telloh**, tỉnh Dhi Qar, Iraq, và là một thành phố của người Sumer cổ đại, nằm khoảng 25 km (16 dặm) về phía tây bắc
**Ebla** (Sumer: 𒌈𒆷 _eb₂-la,_ , hiện đại: , **Tell Mardikh**) là một trong những vương quốc cổ nhất ở Syria. Tàn tích của nó ngày nay là một gò đất nằm gần làng Mardikh cách
right|thumb|[[Lưỡng Hà vào thời của Hammurabi]] **Larsa** (Sumer tốc ký: UD.UNUGKI, read _Larsamki_) là một thành phố quan trọng của người Sumer cổ đại, trung tâm của tín ngưỡng thờ thần mặt trời Utu. Nó
**Triều đại thứ ba của Ur,** hay còn gọi là **Đế quốc Tân-Sumer,** đề cập đến triều đại cai trị Sumer từ thế kỉ 22 đến thế kỷ 21 TCN, có lãnh thổ bao gồm
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Ninurta**, còn được gọi là **Ninĝirsu**, là một vị thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với nông nghiệp, chữa bệnh, săn bắn, luật pháp, kinh sư và chiến tranh, được bắt đầu thờ phụng
**Sơ kỳ triều đại Lưỡng Hà** hay **Các triều đại Lưỡng Hà đầu tiên** là một thời kỳ khảo cổ ở Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) thường được xác định niên đại từ c. 2900-2350
thumb|upright|Tranh của [[Sandro Botticelli: _Sự ra đời của Venus_ (khoảng 1485)]] nhỏ|phải|Biểu tượng của sinh vật [[cái trong sinh học và nữ giới, hình chiếc gương và chiếc lược. Đây cũng là biểu tượng của
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Ả Rập Xê Út** (, "thuộc về Nhà Saud", cũng được viết là **Ả Rập Saudi**, **Arab Saudi**, **Saudi Arabia**), tên gọi chính thức là **Vương quốc Ả Rập Xê Út** , "Vương quốc Ả
**Enheduanna** (Sumer: 𒂗𒃶𒌌𒀭𒈾 cũng được phiên âm là _Enheduana,_ _En-hedu-ana,_ hoặc biến thể; sống khoảng thế kỷ 23 TCN), là nhà thơ, nữ tu sĩ ở Lưỡng Hà cổ đại và là tác giả đầu
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
thumb|Logo của Phong trào đấu tranh cho Nhân quyền, kết hợp giữa biểu tượng [[hòa bình|chim hòa bình và bàn tay]] **Nhân quyền** (hay **quyền con người**; tiếng Anh: _human rights_) là những quyền tự
thumb | 220x124px | right | Luật hình sự thời [[nhà Nguyễn được viết bằng chữ Hán]] Khái niệm **luật hình sự** (Tiếng Anh: _criminal law_) nói về những luật có chung tính chất là
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
nhỏ|_[[The Dying Gaul|Dying Gaul_, hay _Capitoline Gaul_ một bản sao bằng đá cẩm thạch La Mã của một công trình Hy Lạp hóa cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên Bảo tàng Capitoline, Rome]]
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Tigris** (Tiếng Việt:**Ti-gơ-rơ** hoặc **Tigrơ**, được phiên âm từ tên tiếng Pháp: **Tigre**) là con sông phía đông thuộc hai con sông lớn phân định nền văn minh Lưỡng Hà, cùng với sông Euphrates. Tigris
**Lịch sử chữ viết** bắt đầu khi các hệ thống chữ viết đầu tiên của loài người xuất hiện vào đầu thời kỳ đồ đồng (cuối thiên niên kỷ 4 trước Công Nguyên) từ các
nhỏ|Xác định cây gậy, sử dụng chiều dài bàn chân trái của 16 người được chọn ngẫu nhiên đến từ buổi lễ nhà thờ. Bản khắc gỗ được xuất bản trong cuốn sách Geometrei của
_Nguyên bản [[Hiến pháp Hoa Kỳ]]_ **Hiến pháp** là một hệ thống cao nhất của pháp luật quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm
**Phalanx** (tiếng Hy Lạp cổ: _φάλαγξ_, tiếng Hy Lạp hiện đại: _φάλαγγα_, phiên âm: _phālanga_, số nhiều: _φάλαγγες_, phiên âm: _phālanges_), thường được chuyển ngữ Việt là **Phương trận**, là một đội hình quân sự
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Lugal-Zage-Si** (thường viết là _Lugalzaggesi_, đôi lúc là _Lugalzagesi_ hoặc "Lugal-Zaggisi") của Umma (trị vì khoảng năm 2294-2270 TCN) là vị vua Sumer cuối cùng trước khi Sargon của Akkad chinh phục Sumer và sự
**Lugal-Anne-Mundu** (khoảng thế kỷ 25 trước Công nguyên) là vị vua quan trọng nhất của thành bang Adab tại Sumer. _Danh sách vua Sumer_ xác nhận rằng ông trị vì tới 90 năm từ sau
**Gilgamesh** (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, _Gilgameš_; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, _Bilgames_) là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Umma** (ngày nay là _Umm al-Aqarib_, tỉnh Dhi Qar ở Iraq) là một thành phố của người Sumer cổ đại. Có một số cuộc tranh luận học thuật về tên gọi Sumer và Akkad cho
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Akshak** là một thành phố của người Sumer cổ đại, nằm trên biên giới phía bắc của Akkad, đôi khi được xác định với **Upi** của Babylon (tiếng Hy Lạp là _Opis_). Vị trí chính
**Tài sản sở hữu** hay **sản nghiệp** trong bản trích yếu là những gì thuộc về hoặc với một cái gì đó dù là một thuộc tính hoặc là một thành phần của điều được
nhỏ|Tượng của một "người Sumer cầu nguyện", Gudea, Sơ kỳ Triều đại (k. 2500 TCN) |328x328px **Tôn giáo Sumer** là tôn giáo được thực hành và thờ phụng bởi người Sumer, nền văn minh đầu
Các thành phố đầu tiên trong lịch sử đã được biết cho đến nay nằm ở vùng Cận Đông cổ đại, khu vực bao gồm phần lớn vùng Trung Đông hiện đại: có lịch sử
**Đế chế Babylon Cổ**, hay **Đế chế Babylon thứ nhất**, là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad tại nam Lưỡng Hà (nay là Iraq), tồn tại trong k. 1894 TCN - k. 1595