✨Ramesses III

Ramesses III

Usermaatre Meryamun Ramesses, thường được gọi ngắn gọn là Ramesses III, là pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Trong triều đại của mình, ông xem Ramesses II, vị pharaon vĩ đại của Vương triều thứ 19 làm hình mẫu. Ramesses III được xem là vị vua vĩ đại cuối cùng của Ai Cập thời kỳ Tân vương quốc.

Ramesses III nổi bật với chiến công đánh bại các Hải Tộc, liên minh các bộ tộc xâm lược từng tàn phá nhiều nền văn minh Đông Địa Trung Hải ở thế kỷ 12 TCN. Ông đã cho xây dựng một đền tang lễ quy mô lớn tại bờ tây sông Nin, nay được biết đến với tên gọi là Medinet Habu. Song song đó, triều đại của Ramesses III cũng đánh dấu cho thời kỳ suy tàn về chính trị và kinh tế của Ai Cập.

Cái chết của Ramesses III bắt nguồn từ một vụ án nghiêm trọng nơi hậu cung. Ông bị ám sát theo lệnh của thứ phi Tiy nhằm đưa con trai bà là Pentawer lên ngôi. Kiểm tra xác ướp cho thấy, ông qua đời vào khoảng 65 tuổi. Thời gian trị vì của Ramesses III chưa thống nhất giữa các nhà Ai Cập học, ước tính trong khoảng năm 1182–1151 TCN (theo Clayton), 1186–1153 TCN (theo Bierbrier), hoặc 1195–1164 TCN (theo Schneider).

Vương thất

Cha mẹ

Dù có cùng tên gọi, nhưng Ramesses III lại không có mối quan hệ họ hàng nào với Ramesses I hay Ramesses II, những pharaon thuộc Vương triều thứ 19. Ramesses III là người con trai duy nhất được biết đến của Setnakhte, pharaon sáng lập Vương triều thứ 20, với Tiy-Merenese, một vương hậu có khá ít thông tin.

Con cái

Tên các người con trai của Ramesses III cũng được đặt dựa theo tên các con của Ramesses II.

Ramesses IV, người kế vị sau đó, chắc chắn là con của Ramesses III, dựa vào Cuộn giấy cói Harris I (do chính Ramesses IV biên soạn nói về sự khôi phục lại trật tự cho Ai Cập bởi ông nội và cha). Ngoài ra, Ramesses III cũng còn hai người con khác sau đó cũng tiếp tục lên ngôi, là Ramesses VI và Ramesses VIII. Sau khi lên ngôi, cả 3 anh em đều khắc thêm biểu tượng con rắn Uraeus trên phù điêu của mình trong đám rước của các vương tử được khắc ở hai bên cổng vào từ sảnh đền tang lễ Ramesses III (ở Medinet Habu).

Căn cứ vào phù điêu đám rước các vương tử, Ramesses III còn ít nhất 6 người con trai được biết tên, tuy nhiên lại không rõ tên của những người con gái:

  • Pareherwenemef và Khaemwaset, lần lượt được chôn cất trong QV42 và QV44, hai người con trai được gọi là Con trai cả của Nhà vua. Có thể đây là một danh hiệu trao cho những đứa con đầu lòng của hai hậu phi khác nhau, hoặc có thể ám chỉ những người con trai có địa vị cao nhất.

Ngoài hai bà chính hậu, Ramesses III còn nhiều thứ phi khác nơi hậu cung, mà nổi bật trong số đó là Tiy, người đã chủ mưu ám sát ông để đưa con trai bà lên ngôi.

Chiến tranh liên miên

nhỏ|272x272px|Trận chiến với Hải Tộc khắc trên tường đền ở [[Medinet Habu]]Trong suốt thời gian cai trị của Ramesses III, giữa những biến động trong thời kỳ sụp đổ của Thời đại đồ đồng muộn, Ai Cập đã phải đối mặt với sự xâm lược từ các thế lực bên ngoài, bao gồm các nhóm Hải Tộc và người Libya cổ đại. Dưới sự lãnh đạo của Ramesses III, Ai Cập đã thành công trong việc đánh bại từng kẻ thù xâm lược. Tuy vậy, vương quốc đã phải đối diện với những khó khăn kinh tế ngày càng nghiêm trọng, cùng với các cuộc xung đột nội bộ, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Vương triều thứ 20.

Chiến tranh với người Libya

Người Libya sau khi bị pharaon Merneptah của Vương triều thứ 19 đánh bại đã quay lại tấn công vào vùng đồng bằng phía tây Ai Cập vào năm thứ 5 trị vì của Ramesses III. Khi tiến vào phía tây, quân Libya đã bao vây pháo đài Hatsho, cách đồng bằng khoảng 11 dặm. Tại đó, Ramesses III đã tấn công quân địch một cách quyết liệt, tiêu diệt lực lượng đồn trú và khiến Libya phải tháo chạy, thậm chí một số lượng tù binh Libya bị bắt lại và nhập vào quân đội Ai Cập. Nhà vua cũng đã xây dựng thêm các công trình phòng thủ khác dọc theo bờ biển Địa Trung Hải để bảo vệ vùng biên giới phía bắc và tây Ai Cập.

Tuy nhiên, chỉ 6 năm sau đó, người Libya đã quay lại xâm lược Ai Cập vào năm Ramesses III thứ 11. Tuy vậy, ông lại một lần nữa giành chiến thắng, và tù binh bị bắt đã bị đưa đi làm lính đánh thuê ở vùng Faiyum và châu thổ sông Nin. Những tên lính này bị đánh dấu bằng sắt nung, vợ con của họ cũng bị bắt theo, tài sản, đặc biệt là đàn gia súc, bị tịch thu và chuyển giao đến điền trang của Amun. Những người Libya nô lệ này được sinh sống cùng với các cư dân Ai Cập bản địa, qua đó hình thành các cộng đồng người Libya bắt đầu tụ họp tại Ai Cập.

Trong thời kỳ trị vì của Ramesses III, sự hiện diện của Ai Cập ở vùng Levant được chứng thực xa về phía bắc tới tận Byblos, và có khả năng ông đã mở rộng sự cai trị xa hơn về phía bắc tới Syria.

Chính trị-kinh tế bất ổn

trái|nhỏ|Hành lang dẫn xuống hầm mộ KV11 Do chiến tranh, Ramesses III đã tiến hành các cuộc thanh tra vương quốc để đánh giá tình hình. Một cuộc thanh tra lớn vào năm thứ 15 do Trưởng quản thủ Kho báu của Pharaon tên là Penpato chỉ đạo, được tổ chức theo hệ thống từ nam ra bắc, chứng thực bởi các dòng chữ khắc tại Elephantine, Edfu, El-Tod và Karnak. Tình trạng nhiễu nhương trong giai đoạn này phần lớn bắt nguồn từ chính nhà vua, thể hiện rõ qua việc dồn sức xây dựng các đền đài, cũng như sự tham nhũng của các quan chức, tiêu biểu là trường hợp một tư tế Khnum tại Elephantine đã có hành vi biển thủ và trộm cắp dưới triều Ramesses III.

Vào năm thứ 29 trị vì của nhà vua, một cuộc đình công đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử. Những công nhân tại Deir el-Medina do bị chậm trễ cung cấp khẩu phần ăn tới hai tháng đã ngừng làm việc và mang đơn khiếu nại đến gặp tể tướng Ta tại đền Ramesseum. Những vấn đề này chắc chắn bắt nguồn từ khủng hoảng kinh tế, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự suy yếu của vương thất so với giới tư tế, một thế lực đã trở nên rất hùng mạnh.

Pebekkamen, một tổng quản hậu cung, tòng phạm chính với Tiy, mà bản án Turin ghi rõ: ::Tên tội phạm đại hình Paibekkamen, giữ chức Tổng quản hậu cung, bị đưa ra xét xử vì đã cấu kết với Tiy và các phu nhân trong hậu cung. Hắn đã đồng lõa với bọn họ, đã truyền lời của họ tới mẹ và các anh em của bọn họ đang ở bên ngoài, rằng: “Hãy làm kinh động dân chúng! Gieo rắc hận thù để phản lại chủ nhân của các ngươi!”

Tổng cộng, có 28 phạm nhân bị hành quyết, bao gồm một nhóm 6 quan chức triều đình và 1 con trai của một viên quan, 14 nội quan hậu cung, 6 bà vợ của các lính gác hậu cung, 1 đội trưởng cung thủ người Nubia. Vương tử Pentawer và một số quan chức khác thì cho tự sát, số còn lại thì bị xẻo tai và mũi. Sau đó, người ta còn phát hiện ra rằng ngón chân cái của Ramesses III đã bị chặt đứt và vẫn chưa lành, cho thấy ông đã bị nhiều kẻ tấn công bằng các loại vũ khí khác nhau tấn công. Những người ướp xác đã tạo ra một ngón chân giả bằng vải lanh cho ông.

Lăng mộ KV11 ban đầu được Setnakhte khởi công, nhưng đã bị bỏ hoang khi vô tình phạm vào lăng mộ KV10 trước đó của Amenmesse. KV11 sau đó được khởi công lại và mở rộng thêm dành cho Ramesses III. Tuy vậy, xác ướp của ông lại được tìm thấy trong hầm mộ TT320, nơi chôn cất của Đại tư tế Amun Pinedjem II, cùng với nhiều vua chúa hậu phi thuộc các vương triều khác.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Usermaatre Meryamun Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses III**, là pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Trong triều đại của mình, ông xem Ramesses
**Amunherkhepshef**, còn viết là **Amenhirkhopshef**, là một vương tử của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ông được chọn làm trữ quân nhưng đã qua đời
**Khaemwaset** là một vương tử của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ông được chọn làm trữ quân nhưng đã qua đời khi còn trẻ, do
**Montuherkhepeshef**, còn viết là **Mentuherkhepeshef**, là một vương tử của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. ## Thân thế Do Ramesses III xem Ramesses II tiền
**Pareherwenemef**, còn viết là **Prehirwenemef**, là một vương tử của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. ## Thân thế Do Ramesses III xem Ramesses II tiền
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Ramesses IV**, còn có tên **Ramses IV** hay **Rameses IV**, là vị pharaon thứ ba của Vương triều thứ 20 của Ai Cập cổ đại thời Tân vương quốc, cai trị từ khoảng năm 1155
**Ramesses**, còn được viết là **Rameses** hoặc **Ramses**, là một cái tên được đặt bởi 11 pharaon Ai Cập cổ đại ở thời kỳ Tân vương quốc, và một số vương tử con của họ.
**Ramesses II** (hay **Ramesses đại đế**, **Ramses II**, **Rameses II**, ông cũng được biết đến với tên **Ozymandias** theo tiếng Hy Lạp, từ sự chuyển ký tự từ tiếng Hy Lạp sang một phần tên
**Usermaatre Sekheperenre Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses V**, là pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ramesses V là người con duy nhất được
**Usermaatre Setepenre Meryamun Ramesses**, tên riêng là **Ramesses-Itamun**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses VII**, là pharaon thứ tám thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ramesses VII là
**Ramesses XI** (còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) trị vì từ năm 1107 TCN đến 1078 TCN hay năm 1077 TCN, ông là vị vua thứ mười cũng là pharaon cuối cùng của Vương
**Ramesses IX**, hay **Ramses IX**, là vị pharaon thứ 8 của Vương triều thứ 20 của Ai Cập cổ đại thời kì Tân vương quốc (cai trị: 1129-1111 TCN). Ramesses IX là người kế vị
**Trận Djahy** là một trận chiến lớn giữa quân đội đế quốc Ai Cập do vua Ramesses III chỉ huy với lực lượng của các hải nhân xâm lược Ai Cập, diễn ra vào năm
**Usermare Akhenamun Ramesses VIII** (cũng còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) hoặc **Ramesses Sethherkhepshef Meryamun** (Seth là sức mạnh của ngài, tình yêu của Amun') (từ 1.130-1.129 trước Công nguyên, hoặc chỉ đơn giản
**Khepermaatre Ramesses X** (còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) (trị vì khoảng năm 1111 TCN - 1107 TCN) là vị vua thứ chín thuộc Vương triều thứ 20 của Ai Cập cổ đại. Tên
**Nebettawy** là một Công chúa và Vương hậu của Ai Cập cổ đại. Bà là một trong ba người con gái (hai người kia là Bintanath và Meritamen) được sắc phong làm vợ bởi chính
:_Không nên nhầm lẫn với Amun-her-khepeshef, một người con trai của Ramesses II, Amun-her-khepeshef, một người con trai của Ramesses III, và Ramesses VI Amun-her-khepeshef_ **Amenherkhepshef** (còn là **Amenherkhepshef D** để phân biệt ông với
**Kim tự tháp Senusret III**, được xây dựng trong khu nghĩa trang hoàng gia Dahshur và nằm ở phía đông bắc Kim tự tháp Đỏ. Nó vượt xa cả về kích thước lẫn quy mô
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
**Vương triều thứ Hai Mươi** (**Vương triều thứ 20**) của Ai Cập cổ đại là một vương triều thuộc thời kỳ Tân Vương quốc. Vương triều này cùng với hai Vương triều trước đó là
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
:_Đừng nhầm lẫn với Tiy, thứ phi của pharaon Ramesses III_ **Tyti** là một Chính thất Vương hậu của pharaon Ramesses III và là mẹ của pharaon kế vị Ramesses IV thuộc Vương triều thứ
**Trận Kadesh** (hay _Qadesh_) là một trận đánh diễn ra tại Kadesh trên sông Orontes, nơi mà ngày nay thuộc Cộng hoà Ả Rập Syria, giữa quân đội Ai Cập dưới quyền của pharaoh Ramesses
**Iset/Isis Ta-Hemdjert**, được viết gọn là **Iset/Isis**, là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 20 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là một Chính thất Vương hậu của pharaon
**Pentawer**, còn viết là **Pentawere** hay **Pentaweret**, là một vương tử của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ông chỉ được nhắc đến qua Cuộn giấy
**Tiy**, còn viết là **Tiye**, là một thứ phi của pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Bà được biết đến qua Cuộn giấy cói Tư pháp
nhỏ|320x320px|Thung lũng các vị Vương hậu nhìn từ trên không **Thung lũng các Vương hậu** ( _Wādī al Malekāt_) là một thung lũng ở Ai Cập, nơi các vợ của pharaon được chôn cất trong
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
**Duatentopet** là một vương hậu dưới thời Vương triều thứ 20 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà được cho là vợ của Ramesses IV và là mẹ của Ramesses V, dù không có
nhỏ|phải|[[Howard Carter kiểm tra quan tài trong cùng để xác ướp vua Tutankhamun]] **Xác ướp** là một người hoặc động vật có da với các cơ quan đã được bảo quản bằng cách tiếp xúc
**Setnakhte** (hay **Setnakht**, **Sethnakht**), là vị pharaon đầu tiên và là người sáng lập ra Vương triều thứ 20, vương triều cuối cùng của thời kỳ Tân vương quốc Ai Cập. ## Thân thế Setnakhte
**Amunherkhepeshef**, còn được viết là **Amenherkhepshef** hay **Amenhirkhopshef**, là một tên gọi được đặt bởi người Ai Cập cổ đại, mang ý nghĩa là "_Thần Amun với cánh tay mạnh mẽ của ngài_". Tên này
**Đền Luxor** là một quần thể đền thờ nằm ở bờ đông sông Nin thuộc thành phố Thebes cổ xưa và Luxor, Ai Cập ngày nay, được xây dựng vào năm 1400 TCN. Trong tiếng
thumb|right|Bản đồ của Khu lăng mộ Thebes **Khu lăng mộ Thebes** là một khu lăng mộ và nghĩa địa trên bờ tây của sông Nile, đối diện với Thebes (Luxor) ở Thượng Ai Cập. Nó
**Iset** hay **Aset**, là một cái tên được đặt cho phụ nữ quý tộc trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, mang ý nghĩa là "_Bà ta ngồi trên ngai_". Đây cũng là một cách
**Maathorneferure** là một Vương hậu của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 19. Bà là một trong 7 vương hậu chính cung được sắc phong của Pharaon vĩ đại nhất trong lịch sử
thumb|Xác ướp của Djedptahiufankh, từ DB320. **Djedptahiufankh** đã giữ chức vụ Nhà Tiên tri thứ Hai của Amun và Nhà tiên tri thứ ba của Amun dưới triều đại của Shoshenq I thuộc vương triều
phải|nhỏ|300x300px| Đền thờ của Hatshepsut **Đền tang lễ** (hay những **Đền chôn cất**, tiếng Anh: **_Mortuary Temple_** hay **_Funeral Temple**)_ là những đền thờ được dựng liền kề, gần kề hoặc xung quanh khu vực
**Merneptah** (hay **Merentaph**) là vị vua thứ tư của Vương triều thứ 19 của Ai Cập cổ đại. Ông cai trị trong khoảng từ cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8, 1213 đến 2 tháng
**Bảo tàng Mỹ thuật Boston** (tên tiếng Anh: **Museum of Fine Arts**, thường được viết tắt là **MFA Boston** hoặc **MFA**) là một bảo tàng nghệ thuật ở Boston, Massachusetts. Đây là bảo tàng nghệ
**Tiye** (còn được viết là **Tiy**, **Tiyi**, **Tiya**), là tên của một vài người phụ nữ vương thất trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên này có thể chỉ đến một trong những người
nhỏ|KV11 Setnakhte-toàn quyền III Sơ|trái**Ngôi mộ KV11** là ngôi mộ của Ai Cập Cổ đại, dùng để chôn cất vị Pharaon Ramesses III. Nằm trong trung tâm của Thung lũng của các vị Vua, các
**Tiy-Merenese**, còn viết là **Tiye-Mereniset**, là vương hậu thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Bà là phối ngẫu duy nhất được biết đến của pharaon Setnakhte, và là mẹ
**Henutneferumut Irietre Shepenupet II** (hay **Shepenwepet II**) là một công chúa và là một Đại tư tế thuộc Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử Shepenupet II là
**Twosret** (**Tawosret**, **Tausret**) được biết đến là Nữ vương cuối cùng của Ai Cập cổ đại trong các vương triều và là Pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 19. Bà được sách Manetho chép
**Khaemwaset**, hoặc **Khaemweset**, là một tên gọi được đặt bởi người Ai Cập cổ đại, phổ biến vào thời kỳ Tân vương quốc. Những cá nhân nổi bật mang tên này là: * Khaemwaset, một
**Akhenre Setepenre Siptah** hay **Merneptah Siptah** là vị vua áp chót của Vương triều thứ 19, cai trị được 7 năm, 1197 – 1191 TCN. Thân thế của ông đến nay vẫn còn là bí
thumb|right|Bức tranh tường thuộc giai đoạn đầu [[Vương triều thứ Mười Chín của Ai Cập|thời đại Ramesses từ ngôi mộ ở Deir el-Medina miêu tả một cặp vợ chồng người Ai Cập đang thu hoạch
**Gaston Camille Charles Maspero** (23 tháng 6 năm 1846 - 30 tháng 6 năm 1916) là một nhà Ai Cập học và khảo cổ học người Pháp. Ông nổi tiếng với việc phổ biến thuật