✨Kim tự tháp Senusret III

Kim tự tháp Senusret III

Kim tự tháp Senusret III, được xây dựng trong khu nghĩa trang hoàng gia Dahshur và nằm ở phía đông bắc Kim tự tháp Đỏ. Nó vượt xa cả về kích thước lẫn quy mô so với các kim tự tháp được xây trong cùng thời kỳ Vương triều thứ 12, với chiều cao 78 mét, các cạnh dài 105 mét và nghiêng 56°18'35".

Đây được cho là nơi chôn cất của pharaon Senusret III, mặc dù ông cũng cho xây dựng một công trình tưởng niệm tại Abydos, và nhiều người cũng nghĩ nhà vua được chôn tại Abydos.

Lịch sử khảo cổ

Kim tự tháp lần đầu tiên được khai quật vào năm 1894 bởi nhà Ai Cập học người Pháp Jacques de Morgan, người đã tìm cách đi vào phòng chôn cất sau khi phát hiện một đường hầm được đào bởi những tên trộm xưa kia.

Trong những thập niên 1990, Dieter Arnold đã tái khảo sát lại khu phức hợp này. Karl Richard Lepsius đã đánh số thứ tự cho kim tự tháp này trong danh sách các kim tự tháp của ông là Lepsius XLVII.

Phức hợp

trái|nhỏ|267x267px|Sơ đồ phức hợp kim tự tháp của vua [[Senusret III]] Phức hợp kim tự tháp được bao bọc bởi một lớp tường, được khía rãnh như khu phức hợp của Djoser. Kim tự tháp và đền thờ được ngăn cách riêng bởi một bức tường khác, 7 kim tự tháp vệ tinh nằm giữa 2 lớp tường này. Vữa không được dùng để kết dính các viên gạch, mà thay vào đó, cát được lấp đầy các khoảng trống. Kim tự tháp sau đó đã bị sụp đổ dưới thời vua Ramesses II do không có những viên gạch lớn để giữ vững kim tự tháp.nhỏ|Một con thuyền barque được chôn ở góc tây bắc khu phức hợpCũng giống như Flinders Petrie, Morgan đã gặp khó khăn khi tìm lối vào kim tự tháp này. Bắt đầu từ thời Senusret II trở đi, lối vào kim tự tháp không còn nằm ở hướng bắc nữa, nhưng nhà nguyện Bắc vẫn được xây dựng. Cửa vào của kim tự tháp được giấu ở phía tây, bên dưới một vỉa hè, dẫn xuống phòng ngoài, thông với căn phòng chôn cất.

Phòng chôn cất có một mái vòm bằng đá vôi, phía trên là một mái vòm nữa bằng gạch bùn. Tường phòng bằng đá granite có phủ thạch cao, trong khi những phần còn lại của phòng được phủ đá vôi thường và được điểm sơn trắng và đỏ, giả như đó là đá granite hồng.

Một cỗ quan tài tinh xảo bằng đá granite đặt ở phía tây căn phòng và một hốc nhỏ ở tường phía nam để cất rương đựng bình nội tạng. Bởi vì không tìm thấy bất cứ những gì còn sót lại của những bình nội tạng, và trong quan tài chỉ toàn là cát bụi, nên Joe Wegner, Mark Lehner và các nhà nghiên cứu khác đều cho rằng, Senusret III không bao giờ được chôn cất tại nơi đây, mà là tại Abydos. Gần đây, ngôi mộ ở Abydos của nhà vua được xem là mộ rỗng, chỉ là một công trình tưởng niệm của ông.

Arnold lại nghĩ rằng, căn phòng chứa quan tài bên dưới kim tự tháp chỉ là phòng mộ của hoàng hậu, và phòng mộ chính của Senusret vẫn chưa được tìm ra. Tất cả những gì được tìm thấy trong căn phòng này, ngoại trừ cỗ quan tài, là những bình gốm và một con dao găm đồng có cán bằng ngà.

Kim tự tháp vệ tinh

Ở phía bắc kim tự tháp chính là 4 kim tự tháp nhỏ, được cho là nơi chôn cất của các hậu phi, công chúa của vua Senusret III. Các phòng mộ đều thông với nhau, đều có một cỗ quan tài và một rương đựng bình nội tạng. Có 2 quan tài được khắc chữ, mang tên của Menet và Senetsenbetes, 2 người con gái của Senusret. Nhiều trang sức và đá quý cũng được tìm thấy và mang tên của hoàng hậu Sithathor (vợ, đồng thời là chị em gái của Senusret III) và công chúa Mereret con ông, hiện nằm trong Bảo tàng Cairo.

Ở phía nam kim tự tháp chính lại là 3 kim tự tháp khác, thuộc về 3 bà phi khác của Senusret III: Neferthenut, Khenemetneferhedjet II và Itakayt. Những vật dụng được tìm thấy trong ngôi mộ này là những phần vương trượng và trang sức mang tên các bà. Mảnh vỡ bình nội tạng của thái hậu Khenemetneferhedjet I, mẹ ruột của Senusret III cũng nằm trong số này. Các cỗ quan tài cũng nằm ở mé tây của căn phòng.

Kho báu

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim tự tháp Senusret III**, được xây dựng trong khu nghĩa trang hoàng gia Dahshur và nằm ở phía đông bắc Kim tự tháp Đỏ. Nó vượt xa cả về kích thước lẫn quy mô
**Kim tự tháp Senusret II**, còn gọi là _"Senusret tỏa sáng"_, là một phức hợp kim tự tháp được xây dựng tại El Lahun (tỉnh Faiyum ngày nay) dành cho pharaon Senusret II, vua của
**Kim tự tháp Khendjer** là một kim tự tháp được xây dựng làm lăng mộ cho pharaoh Khendjer, người trị vị Ai Cập vào năm 1760 TCN.Kim tự tháp là một phần của một khu
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Khakhaure Senusret III** (thỉnh thoảng viết là **Senwosret III** hay **Sesostris III**) là pharaon của Ai Cập. Ông cai trị từ 1878 TCN đến 1839 TCN trong thời kì hùng cường và thịch vượng,, và
Khakeperre **Senusret II** là vị pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông cai trị từ năm 1897 TCN đến năm 1878 TCN. Kim tự tháp của ông đã được
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu I và Neferu II._ **Neferu III** ("_Sắc đẹp_") là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Itakayt** là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà mang danh hiệu "_Con gái của Vua_". ##
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Khenemetneferhedjet II và Khenemetneferhedjet III_ **Khenemetneferhedjet I Weret** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Amenemhat III**, cũng còn được viết là **Amenemhet III** là một pharaon thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông trị vì từ khoảng năm 1860 TCN tới khoảng năm 1814 TCN, niên
**Meretseger** ("_Người thích sự tĩnh lặng_") là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà được đặt theo tên của nữ thần rắn Meretseger.
**Neferthenut** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà mang danh hiệu "_Vợ của Vua, người của giới thượng lưu_", "_Người trông thấy
:_Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Khenemetneferhedjet I và Khenemetneferhedjet III_ **Khenemetneferhedjet II Weret** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Dahshur** (hay **Dashur**, tiếng Ả Rập-Ai Cập: دهشور) là một nghĩa trang hoàng gia nằm trong sa mạc ở bờ tây của sông Nin, cách thủ đô Cairo khoảng 40 km. Nơi đây nổi tiếng với
**Nubkhaure** **Amenemhat II** hay **Amenemhet II** là vị pharaon thứ ba của Vương triều thứ 12, Ai Cập cổ đại (cai trị từ 1929-1895 TCN). Ông là con của Senusret I và Nefru III. Người
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
nhỏ|Pectoral từ hộp trang sức của Mereret **Mereret** (hay **Meret**) là một _cô con gái của nhà vua_ Ai Cập cổ đại được biết đến từ việc chôn cất bà bên cạnh Kim tự tháp
**Khasekhemre Neferhotep I** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn giữa của vương triều thứ 13, ông đã trị vì trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ thứ 18 TCN trong một
**Amenemhat I**, hay **Amenemhet I**, là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ 12 của Ai Cập cổ đại vào thời Trung Vương quốc. Amenemhat I là Tể tướng dưới triều vua Mentuhotep IV
nhỏ|246x246px|Dedun đội [[vương miện cho Thutmose III trong lễ đăng cơ]] **Dedun** (còn được viết là **Dedwen**, **Dedan**, **Tetun**) là một vị thần trong văn hóa Ai Cập cổ đại có nguồn gốc từ Nubia.
**Sithathoriunet** (tên của bà có nghĩa là con gái của Hathor của Dendera,) là _con gái_ của một _vị vua_ Ai Cập cổ đại của triều đại thứ 12, chủ yếu được biết đến từ
**Sopdet** (tiếng Ai Cập: _Spdt_, nghĩa là "Tam giác"), còn gọi là **Sothis** trong tiếng Hy Lạp cổ đại (Σῶθις; _Sôthĭs_), là nữ thần hiện thân của sao Thiên Lang, ngôi sao sáng nhất trên
**Deir el-Bahari** hoặc **Dayr al-Bahri** ( _al-Dayr al-Baḥrī_ "Tu viện phía Bắc") là một quần thể các đền thờ phục vụ cho tang lễ và tưởng niệm, và các lăng mộ nằm trên bờ tây
nhỏ|phải|Bia đá mạ vàng trên bảo tháp [[Thích Ca Phật Đài ở Thiền Lâm Tự, Bà Rịa-Vũng Tàu]] **Bia** (_chữ Hán_:碑; phiên âm: "_bi_") là vật tạo tác dạng phiến dẹp có mặt phẳng thường