✨Nguyễn Xuân Khoát

Nguyễn Xuân Khoát

Nguyễn Xuân Khoát (11 tháng 2 năm 1910 – 7 tháng 5 năm 1993) là một nhạc sĩ và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông không chỉ được xem là Người anh cả, là Cánh chim đầu đàn của nền tân nhạc Việt Nam, mà còn là người có công đầu khơi lại giá trị nghệ thuật của ca trù – một trong những di sản phi vật thể của Việt Nam.

Cuộc đời

Nguyễn Xuân Khoát sinh ngày 11 tháng 2 năm 1910, trong một gia đình Công giáo tại phố Nhà Thờ ở Hà Nội.

Trước Cách mạng tháng Tám

Năm 1927, ông cùng với vài người bạn như Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Văn Giệp bắt đầu theo học contrebasse tại Conservatoire Français d'Extrême-Orient (Nhạc viện Viễn Đông), một nhạc viện do người Pháp lập ra tại Hà Nội. Nhưng chỉ sau 3 năm, Pháp cho đóng cửa học viện này vì cho rằng "người Việt Nam" không có khả năng âm nhạc. Nguyễn Xuân Khoát cùng các bạn buộc phải chơi nhạc ở các hộp đêm để kiếm sống. Ông có thể chơi thành thạo violin, piano và nhất là contrebass. Năm 1936, ông tham gia ban kịch Tinh Hoa do nhà thơ Đoàn Phú Tứ thành lập. Đây là ban kịch tồn tại lâu nhất tại thời điểm bấy giờ, biểu diễn đến tận Huế, Đà Nẵng và Hội An.

Nguyễn Xuân Khoát đã tự học chèo, ca trù và phổ những bài ca dao quen thuộc của âm nhạc dân gian Việt Nam như "Thằng Bờm", "Con voi", "Con cò mày đi ăn đêm". Sáng tác mới đầu tay của ông là bài "Bình minh" (phổ thơ của Thế Lữ) được in ngày 31 tháng 7 năm 1938 trên tờ "Ngày Nay" số 121. Bài hát sử dụng chất liệu ngũ cung của phương Đông với hệ ký âm của phương Tây. Đây được xem là một trong những cột mốc mở đầu nền Tân nhạc Việt Nam. Năm 1942, ông tham gia nhóm Xuân Thu nhã tập cùng với nhà thơ Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Không chỉ phổ nhạc bài thơ "Màu thời gian" của Đoàn Phú Tứ, "Xây mơ" của Nguyễn Xuân Sanh, ông còn kết hợp với Thế Lữ làm ra ca kịch "Trầm Hương Đình". Từ phần lời của Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát đã viết ca khúc "Chào người chìm bóng" cho ca kịch này.

Sau Cách mạng tháng Tám

Đầu năm 1945, khi nạn đói dần lan đến Hà Nội, ông cùng Thế Lữ và một số nhạc sĩ khác như Đoàn Phú Tứ, Bùi Công Kỳ, Văn Chung tổ chức Đoàn ca vũ nhạc Anh Vũ, biểu diễn xuyên Việt, hưởng ứng phong trào Cách mạng Tháng Tám ở miền Trung với nhạc phẩm "Uất hận". Đây là một trong những nhạc phẩm gây tiếng vang lớn trong thời kỳ cách mạng ở Việt Nam đang lên cao trào. Nguyễn Xuân Khoát từng tự hát và đệm phong cầm bài hát này trên sân khấu rạp hát Phan Lương. Sau khi trở về Hà Nội, ông đã đăng bài viết "Nguyện vọng âm nhạc" trên tạp chí Tiên Phong của Hội Văn hóa cứu quốc và tham gia hoạt động cho Hội Khuyến nhạc của Lưu Quang Duyệt. Ông cũng là thành viên chính trong ban nhạc của Quán Nghệ sĩ ở Hà Nội.

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được bổ nhiệm là Trưởng phòng Thiếu nhi (thuộc nha Thể dục, Bộ Thanh niên). Đầu năm 1946, Tổng bộ Việt Minh dự định thành lập Trung ương Nhạc viện nhưng bất thành vì sự trở lại của quân đội Pháp. Sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ vào ngày 19 tháng 12, Nguyễn Xuân Khoát gia nhập Đoàn kịch Tháng Tám của Bộ Nội vụ. Trước đó, Lưu Hữu Phước đã bàn với Nguyễn Xuân Khoát cùng một vài nhạc sĩ khác về việc thành lập đoàn nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam. Đến đầu năm 1947, đoàn "Nhạc kịch thiếu nhi kháng chiến" ra đời. Đoàn nhạc kịch chủ yếu biểu diễn những ca khúc vốn có được biên đạo Tống Ngọc Hạp sân khấu hóa thành điệu nhảy. Dàn nhạc của đoàn do Nguyễn Xuân Khoát chỉ huy chỉ gồm 1 trống, vài cây đàn mandolin, alto, băng cầm và sáo.

Cũng như nhiều cơ quan chính phủ khác, Nguyễn Xuân Khoát cùng gia đình và bạn bè trong đoàn kịch rời Hà Nội để đến căn cứ địa Việt Bắc. Ông vượt sông Hồng, qua Việt Trì đến vùng trung du phía cực Tây Phú Thọ. Đoàn nhạc kịch của ông cũng biểu diễn khắp an toàn khu Việt Bắc (Cao – Bắc – Lạng, Hà – Tuyên – Thái). Trong hành trình di tản này, ông được chứng kiến và nghe kể về những đợt tấn công của quân đội Pháp. Bị ảnh hưởng bởi sự oán thán của người dân, tình cảnh những nhà thờ bị tàn phá, ông đã bắt đầu sáng tác bài "Tiếng chuông nhà thờ" ngay khi đến bến Việt Trì. Sau khoảng 1 tuần thì bài hát mang âm hưởng thánh ca này hoàn thành và được in trên giấy dó tại cơ quan Đoàn Văn nghệ kháng chiến, họa sĩ Tô Ngọc Vân là người trình bày bìa. Phó giáo sư, nhà nghiên cứu Tú Ngọc nhận định, nhạc phẩm này được xem là mẫu hình đầu tiên của thể loại ca khúc hợp xướng thời kỳ 1945 – 1954 của âm nhạc Việt Nam.

Sau khi hoàn thành "Tiếng chuông nhà thờ", Nguyễn Xuân Khoát đã rời Đoàn Văn nghệ kháng chiến và nhập ngũ. Trong những năm tháng đi hành quân, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm như "Đoàn quân cứu thương", "Chiều Việt Bắc" và đặc biệt là "Hát mừng chiến thắng". Đến năm 1954, ông lại được điều về Ban Nhạc vũ – tiền thân của Hội Nhạc sĩ Việt Nam – cùng với Tô Vũ, Đặng Đình Hưng, Văn Chung, Nguyễn Đình Phúc và Lê Yên.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ

Tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, miền Bắc Việt Nam tái lập hòa bình, ông đã sáng tác bản hành khúc hợp xướng "Ta đã lớn" sử dụng một đoạn khá dài trong bài thơ dài "Ta đi tới" của Tố Hữu. Đây được xem là bản hành khúc ra đời sớm nhất trong giai đoạn này. Sau khi quân đội Việt Nam tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Nguyễn Xuân Khoát là một trong những lãnh đạo của Ban Nhạc vũ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam đã cùng các cơ quan quân dân chính vào Hà Nội trước để chuẩn bị cho việc tiếp quản và lãnh đạo các ban ngành liên quan. Đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về Hà Nội. Rất nhiều nhạc phẩm về việc tiếp quản Hà Nội đã ra đời trong thời gian này, trong đó có "Thủ đô thân mến" của Nguyễn Xuân Khoát. Năm 1957, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chính thức được thành lập bởi 5 nhạc sĩ bao gồm Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý và Nguyễn Xuân Khoát, ông cũng trở thành Chủ tịch đầu tiên của hội.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thụy Kha đã từng nhận xét "Nguyễn Xuân Khoát đã tạo dựng được một đội ngũ âm nhạc hùng hậu như một binh chủng đặc biệt với sức công phá của âm thanh còn lớn hơn bom đạn, tạo nên bức tranh âm nhạc thời chống Mỹ hoánh tráng nhất, rock nhất từ trong bản thể âm thanh...", chính là nói về vai trò của Nguyễn Xuân Khoát trong những năm đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Bài hát đã được đăng trên Báo Nhân Dân và tuyển chọn in trong tập bài hát "Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam" do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1970. Không chỉ sáng tác những ca khúc với những đề tài quen thuộc, ông còn có những ca khúc dành cho thiếu nhi như "Lúa thu", "Ông giẳng ông giăng", "Bài ca chữ S".

Bên cạnh những nhạc phẩm có lời ca, Nguyễn Xuân Khoát còn sáng tác nhiều bản hòa tấu, nổi bật nhất là hai tổ khúc "Ông Gióng" và "Sơn Tinh Thủy Tinh" viết cho dàn nhạc cụ dân tộc vốn là nhạc cho hai bộ phim hoạt họa. Tổ khúc "Ông Gióng" được rút ra từ nhạc phim hoạt hình búp bê "Chuyện Ông Gióng" – bộ phim đã đoạt giải Bồ câu Vàng tại năm 1970 – và trở thành bản hòa tấu độc lập gồm 6 chương cho Dàn nhạc Dân tộc tổng hợp. Trong viết nhạc phim, ông đã cho đàn bầu – một nhạc cụ truyền thống của Việt Nam – và cello – một nhạc cụ của phương Tây – thay phiên nhau phụ họa cho lời ru của mẹ Gióng. Còn trong phim "Sơn Tinh Thủy Tinh", bên cạnh các nhạc cụ phương Tây như vĩ cầm, cello, kèn fagotte, ông chủ yếu sử dụng đàn bầu và các bộ gõ Việt Nam như trống đế của chèo, trống con, trống cái, sênh tiền, thanh la. Ngoài ra, ông còn sáng tác những nhạc phẩm dành riêng cho các nhạc cụ gõ, bộ gõ như tổ khúc bốn mùa "Xuân – Hạ – Thu – Đông" và tổ khúc tứ bình "Trúc – Cúc – Tùng – Mai". Đặc biệt, trong bản hòa tấu "Mùa hè" ("Hạ" trong tổ khúc bốn mùa) ông đã sử dụng một nhạc cụ dân gian cổ truyền của miền Trung chính là sênh sứa. Dù đã cao tuổi, nhưng ông vẫn tiếp tục sáng tác nhiều ca khúc mới, đặc biệt là cho các phong trào sáng tác ở Hà Nội. Năm 1979, chiến tranh biên giới Việt–Trung nổ ra. Một đợt biểu diễn ca nhạc đặc biệt đã được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội để phản đối cuộc xung đột vũ trang này. Để hưởng ứng buổi biểu diễn, Nguyễn Xuân Khoát đã sáng tác bài "Giờ đây là giờ sinh tử" trong 1 đêm. Năm 1988, ông tiếp tục sáng tác bài "Chúng tôi quét" nói về đề tài sạch đẹp đường phố, sạch đẹp tư tưởng con người để hưởng ứng phong trào sáng tác đề tài nếp sống của thành phố.

Ngoài việc sáng tác, ông còn có nhiều bài tiểu luận, bài viết đăng trên các báo và tạp chí với những chuyên khảo về ca trù tuồng, chèo truyền thống. Những năm cuối đời, ông vẫn tiếp tục giữ gìn và truyền lại đam mê với bản sắc dân tộc, nghệ thuật cổ truyền cho các thế hệ kế cận thông qua các cuộc nói chuyện, bài viết, tác phẩm, tuyển tập ca khúc, sách chuyên khảo hay album tác giả. Ông được xem là một trong những người đặt nền móng cho việc nghiên cứu âm nhạc chèo, ca trù và âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam.

Cuối đời và vinh danh

Với những đóng góp của ông cho nền Tân nhạc Việt Nam, ông được xem là "anh cả" của âm nhạc Việt Nam hiện đại, nhiều người còn thân mật gọi ông là "Cụ cả Khoát". Ông qua đời vào ngày 7 tháng 5 năm 1993, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật ngay trong đợt trao thưởng đầu tiên với 5 tác phẩm bao gồm: "Tiếng chuông nhà thờ", "Ta đã lớn", "Thanh niên làm theo lời Bác", "Ông Gióng" và "Sơn Tinh Thủy Tinh". Ngày 11 tháng 1 năm 2011, lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông đã được tổ chức tại trụ sở Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Lễ kỷ niệm có sự tham gia của nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Uỷ ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, cùng nhiều nghệ sĩ như Nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ, Nghệ sĩ ưu tú Dương Minh Đức, Quốc Hưng. Hiện nay, tên của ông được đặt cho một tuyến phố ở quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, nối từ cuối phố Đỗ Nhuận đến đường trục khu đô thị Tây Hồ Tây. Năm 2021, đạo diễn Nguyễn Trung Thành bắt đầu thực hiện bộ phim Ả đào, một dự án phim tài liệu về nghệ thuật bảo trợ của Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát là một trong những nhân vật xuất hiện trong bộ phim.

Một số tác phẩm

Thanh nhạc

Khí nhạc

Đánh giá

  • Nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha:

  • Nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền, Giáo sư Trần Văn Khê:

  • Nhà soạn nhạc Jason Gibbs, người được xem là có những khảo cứu và tư liệu đầy đủ nhất về nhạc Việt Nam từ thời tiền chiến cho tới nay:

Khen thưởng

  • Huân chương Độc lập hạng Nhất.
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Xuân Khoát** (11 tháng 2 năm 1910 – 7 tháng 5 năm 1993) là một nhạc sĩ và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông không chỉ được xem
Những Tài Danh Âm Nhạc Việt Nam Nguyễn Xuân Khoát Qua 5 chương của cuốn sách, người đọc như lạc vào thế giới khác thế giới của tình yêu quê hương, đất nước, tính dân
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
Bước sang những năm 40 của thế kỷ XX, khi Phong trào Thơ Mới rơi vào bế tắc, khủng hoảng thì đúng lúc này, nhóm Xuân Thu xuất hiện như một sự tiếp nối mang
**Nguyễn Xuân Sanh** (16 tháng 11 năm 1920 tại Đà Lạt – 22 tháng 11 năm 2020) tại Hà Nội) là nhà thơ và là một dịch giả Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh
**Nguyễn Trương Khoát** (còn có tên là **Nguyễn Trường Khoát**;1913 - 2008) là cán bộ hoạt động cách mạng trước năm 1945, đã từng giữ chúc vụ Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An. Ông được
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Xuân Đàm** (阮春談, 1889-1953), hiệu **Tùng Lâm**, là một danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20. Ông đỗ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi (1919), kỳ thi Nho
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Xuân Thu nhã tập** là tên của một nhóm văn nghệ sĩ có chung chí hướng sáng tác, được tập hợp từ năm 1939, đến tháng 6 năm 1942, thì họ xuất bản được một
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Phúc Ngọc Cầu** (chữ Hán: 阮福玉球; 1734 – 8 tháng 7 năm 1804), là một Công nữ, đồng thời là một cung tần của Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Xuân Lôi** (17 tháng 10 năm 1917 - 29 tháng 8 năm 2006) là một nhạc sĩ Việt Nam có khả năng chơi 27 loại nhạc cụ. Ông là anh trai của nhạc sĩ Xuân
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Nguyễn Văn Tý** (5 tháng 3 năm 1924 - 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như _Dư âm_ đến
**Nguyễn Phúc Điền** (chữ Hán: 阮福沺; 14 tháng 4 năm 1700 – 23 tháng 7 năm 1739), tước phong **Dận Quốc công** (胤國公), là một công tử con của chúa Nguyễn Phúc Chu trong lịch
**Từ phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 慈妃阮氏; ? – 1807), không rõ tên húy, là phi tần của công tử Nguyễn Phúc Luân, con trai chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
:_Bài này viết về hoàng tử con vua Gia Long, về công tử có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Mão** (chữ Hán: 阮福昴; 25 tháng 10 năm 1813 – 18 tháng
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Lê Trọng Nguyễn** (1926 – 2004) là một nhạc sĩ Việt Nam, tác giả ca khúc nổi tiếng _Nắng chiều_. ## Tiểu sử Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn sinh ngày 1 tháng 5 năm 1926
**Nguyễn Thúy Hiền** (sinh ngày 11 tháng 3 năm 1979) là một cựu nữ vận động viên wushu chuyên nghiệp người Việt Nam. Cô được đánh giá là một trong những vận động viên wushu
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Bùi Thị Xuân** (; 1752 – 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là chính thất của Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Thạch Lam** (1910-1942), tên thật là **Nguyễn Tường Vinh**, là một nhà văn Việt Nam thuộc nhóm _Tự Lực văn đoàn_. Ông là em ruột của hai nhà văn khác cũng trong nhóm Tự Lực
**Đình Phú Xuân** (富春亭) được xây dựng nửa đầu thế kỷ 19 ở tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà, nay thuộc phường Tây Lộc, quận Phú Xuân, thành phố Huế, Việt Nam, cách trung tâm
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Nguyễn Đức Đạt** (chữ Hán: 阮德達, 1824 - 1887), tự **Khoát Như**, hiệu **Nam Sơn Chủ Nhân**, **Nam Sơn Dưỡng Tẩu**, **Khả Am Chủ Nhân**, là nhà nho, nhà giáo Việt Nam. ## Tiểu sử
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Nhạc tiền chiến** là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
**Trương Phúc Loan** (chữ Hán: 張福巒; ? - 1776) là một quyền thần cuối thời các Chúa Nguyễn ở Đàng trong. Trong hơn mười năm cầm quyền bính, Trương Phúc Loan đã lạm dụng quyền