Nai sừng xám miền Đông (Danh pháp khoa học: Cervus canadensis canadensis) là một trong sáu phân loài của nai sừng xám phân bố ở miền Bắc và miền đông Hoa Kỳ, Canada và miền Nam. Con nai sừng xám miền Đông cuối cùng đã bị bắn hạ ở Pennsylvania vào ngày 01 tháng 9 năm 1877. Các phân loài đã được tuyên bố tuyệt chủng vào năm 1880. Một phân loài nai sừng xám, nai sừng xám Merriam, cũng đã tuyệt chủng ở khoảng thời gian tương tự. Các nai miền Đông có ngoại hình lớn hơn so với những loài anh em họ ở miền tây. Một con nai đực trưởng thành có thể nặng tới £1000, cao tới 50-60 inch cao ở chiều vai, và mang trên đầu nó một cái gạc với chiều dài sáu feet. Phân loài động vật này thường xuyên mạo hiểm di chuyển từ nơi đất cao xuống chỗ thấp hơn để tìm thức ăn trong mùa đông. Loài nai này cũng là mục tiêu quan trọng của thợ săn vì kích thước lớn và nhiều thịt nạc. Một con đực trưởng thành có thể nặng vài trăm kg với đôi gạc rộng trên dưới 1m.
Lịch sử
Vào cuối thế kỷ thứ 15, trước khi người da trắng đặt chân đến Bắc Mỹ, nai sừng tấm là phổ biến nhất trong Tân Thế giới và có thể được tìm thấy trong suốt vùng của Bắc Mỹ. Đông đảo nai cư trú tại những khu rừng rộng lớn ở phía đông Canada và đông Hoa Kỳ và xa về phía tây là sông Mississippi. Trong vài thế kỷ tiếp theo, các quần thể nai sừng xám giảm do săn bắt quá mức và mất môi trường sống trong rừng rậm của chúng. Tạp chí Naturalist John James Audubon báo cáo rằng năm 1851 một vài cá thể nai vẫn có thể được tìm thấy ở dãy núi Allegheny nhưng chúng đã hầu như biến mất khỏi phần còn lại của phạm vi của chúng. Đến cuối thế kỷ 19, nai sừng xám phía Đông đã hoàn toàn tuyệt chủng. Những gì ta biết rất ít về chủng tộc này của nai sừng xám đã được lượm lặt từ những di tích lịch sử và tài liệu tham khảo. Nghiên cứu ty thể DNA trong năm 2004 chỉ ra rằng Cervus canadensis là một loài riêng biệt từ hươu đỏ châu Âu.
Sự thay thế
Không lâu sau khi nai sừng tấm miền Đông cuối cùng đã bị giết chết ở Pennsylvania, các quan chức liên bang, lo lắng về số phấn của những đàn nai sừng xám còn lại trong và xung quanh Vườn quốc gia Yellowstone, cung cấp các động vật để bất cứ ai sẵn sàng để có chúng để lấp chỗ trống. Các nhà chức trách đã đưa ra một chương trình để du nhập lại nai đến Pennsylvania. Bắt đầu từ năm 1913 và kết thúc vào năm 1926, Ủy ban hữu quan đã du nhập 177 con nai sừng xám ở 10 quận, trong đó có 50 loài động vật từ Yellowstone. Hiện nay, số lượng nai sừng xám đàn Pennsylvania của hơn 800 và phạm vi của chúng bao trùm khoảng 800 dặm vuông.
Trong năm 1990, các nghiên cứu khả thi đã được tiến hành để xác định xem quần thể hoang dã nai sừng xám thả rông vẫn có một chỗ trên một số cũ của mình. Một khi điều này đã được hoàn tất, bầy nai sừng tấm núi Rocky từ Arizona, Kansas, New Mexico, Bắc Dakota, Oregon, Utah và Vườn Quốc gia Alberta của Đảo nai đã được sử dụng để du nhập nai trở lại. Quần thể nai hiện nay đã được du nhập ở Arkansas (1991), Wisconsin (1995), Ontario (2001), Kentucky, Tennessee và Smoky Mountains vào năm 2002, khu vực được gọi là Bắc Michigan và vào năm 2012 ở Virginia. Ngoài ra, các nghiên cứu khả thi cũng đã được hoàn thành ở Illinois, Tây Virginia và New York.
Dân số
Năm 1905, 18 con nai sừng xám đã được du nhập đến công viên quốc gia Fiordland ở New Zealand như một món quà từ tổng thống Theodore Roosevelt. Các quần thể nai sừng xám đã sống sót của một lô hàng ban đầu là 20, một nửa trong số đó đến từ các công viên quốc gia Yellowstone và một nửa từ Brookfield, Massachusetts, thuộc sở hữu của HE Richardson. Sau này được cho là nai miền Đông bị bắt ở miền bắc Minnesota của người Mỹ bản địa. Các quần thể nai sừng xám miền Đông cùng dòng máu có thể giải thích một số đặc điểm khác thường, chúng đã nhìn thấy ở New Zealand giống như nai sừng xám như gạc chân xòe, trong đó giống con dao găm, hoặc điểm thứ tư.
Tuy nhiên, khả năng của một dòng máu thuần chủng là rất thấp. Mặc dù dân số động vật đã thích nghi thành công với địa hình khắc nghiệt, một số yếu tố có thể góp phần làm pha loãng trong tổ hợp gen thuần khiết. có hiện tượng lai tạp với hươu đỏ lan tràn vào khu vực này. Các cơ quan chính phủ đã có thời gian nhìn thấy đàn hoang dã đi vào suy thoái. Nai miền Đông có thể cũng đã ở trên trong các khu rừng rộng của Ontario. Trong khi bằng chứng là khá sơ sài, nhiều người thông báo nhìn thấy một nhóm của nai sừng xám gần Sault Ste. Marie vào đầu những năm 1980. Những nai sừng xám có thể là nguồn gốc của miền đông và vẫn có thể tồn tại trong vùng hoang dã ở Ontario.
Từng có ghi nhận cả đàn nai sừng xám chết do sụt băng khi uống nước, một đàn nai sừng xám gồm hàng chục cá thể đã chết sau khi sụt xuống nước từ lớp băng mỏng ở một hồ chứa phía đông bắc bang Oregon, vụ tai nạn xảy ra khi 41 con nai đang đi ăn ở gần hồ nước Brownlee dài 93 km. Chúng đã đi qua các tảng băng để tìm nước uống. Tuy nhiên, một phần băng ở phía bắc hồ này đã bị suy yếu do nước chảy thường xuyên và một số con nai sừng tấm từng bị ngã do sụt lún băng trước đó mà không thể giải cứu chúng vì các tảng băng không cố định, bốn con nai chết trong tuyệt vọng khi cách bờ 200 – 300 m, dấu chân của những con nai cho thấy chúng không chạy trốn khỏi các động vật săn mồi khác như chó sói, xác của những con nai này sẽ bị chim và các động vật ăn xác khác rỉa thịt và việc lấy thịt của chúng là không đảm bảo, Xác của chúng khi phân hủy sẽ không ảnh hưởng đến chất lượng nước trong hồ chứa.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nai sừng xám miền Đông** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis canadensis_) là một trong sáu phân loài của nai sừng xám phân bố ở miền Bắc và miền đông Hoa Kỳ, Canada và miền
**Nai sừng tấm miền đông** (tên khoa học: _Alces alces americana_) là một phân loài của Nai sừng tấm mà phạm vi sinh sống dao động trong hầu hết các vùng phía Đông Canada và
**Nai sừng tấm Alaska** (Danh pháp khoa học: _Alces alces gigas_) còn được biết đến với tên gọi là **Nai sừng tấm lớn** là một phân loài của Nai sừng tấm châu Âu, phân bố
**Nai sừng xám Tule** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis nannodes_) là một phân loài của nai sừng tấm chỉ được tìm thấy ở California từ vùng đồng cỏ và vùng đầm lầy của Thung
**Nai sừng xám núi Rocky** (Danh pháp khoa học _Cervus canadensis nelsoni_) là một phân loài của nai sừng tấm tìm thấy ở dãy núi Rocky và dãy liền kề ở Tây Bắc Mỹ. Phạm
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
nhỏ|phải|Khu vực phát hiện loài nai này ngày nay **Nai Merriam** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis merriami_) là một phân loài của loài nai sừng xám. Loài nai này đã bị tuyệt chủng. Chúng
**Gấu xám Bắc Mỹ** (tên khoa học **_Ursus arctos horribilis_**; tiếng Anh: **Grizzly bear**), còn được gọi là **gấu đầu bạc**, **gấu xám**, hoặc **gấu nâu Bắc Mỹ**, là một **_phân loài khác_** của gấu
**Sói xám** hay **chó sói xám**, hay đơn giản là **chó sói** (_Canis lupus_) là một loài động vật có vú thuộc Bộ Ăn thịt có nguồn gốc từ lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ.
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
**Nai sừng xám Mãn Châu** (Danh pháp khoa học: **_Cervus canadensis xanthopygus_**) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân
**Nai Kashmir** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis hanglu_) còn gọi là **Hangul** là một phân loài của loài nai sừng xám Bắc Mỹ bản địa của Ấn Độ, đặc biệt là ở Jammu và
**Nai sừng xám Manitoban** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis manitobensis_) là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy trong các tỉnh của Canada và vùng Prairie Hoa Kỳ và miền
**Hổ Đông Dương** hay **hổ Corbett** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris corbetti_**) là một phân loài hổ sống chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, được tìm thấy tại Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Nai đen** (Danh pháp khoa học: _Cervus unicolor equinus_) là một phân loài của loài nai (_Rusa unicolor hay Cervus unicolor_) phân bố ở vùng Đông Dương đến bán đảo Mã Lai. Đây là loài
**Nai sừng xám Altai** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis sibiricus_) hay còn gọi là **nai đỏ** là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy trong các ngọn đồi rừng của
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Hùm xám** hay **cọp xám**, **hổ xám** hay **hổ lam**, **hổ xanh** là một thuật ngữ dùng để mô tả về những con hổ có biến đổi về màu sắc bộ lông chuyển thành màu
**Văn hóa Đông Sơn** là một nền văn hóa cổ đã xuất hiện vào khoảng năm 800 Trước Công Nguyên, từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh
**Nai đỏ Tây Tạng** (danh pháp khoa học: _Cervus canadensis wallichi_) còn được gọi là **shou** là một phân loài của loài nai sừng xám là có nguồn gốc từ phía Nam của cao nguyên
nhỏ|phải|Thịt thú rừng bày bán ở chợ nhỏ|phải|Bày bán công khai [[cự đà tại chợ Jatinegara]] **Buôn bán động vật hoang dã trái phép** hay **buôn lậu động vật hoang dã** hoặc còn gọi là
**Nai Thiên Sơn** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis songaricus_) là một phân loài của loài nai sừng xám (Cervus canadensis) được tìm thấy trong những dãy núi Thiên Sơn ở miền đông Kyrgyzstan, đông
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
**Hươu sừng ngắn lông xám** (_Mazama gouazoubira_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được G. Fischer von Waldheim mô tả năm 1814. Loài này phân
**Đồng bằng sông Cửu Long** đã có lịch sử khai phá từ thế kỷ 17, bắt đầu dưới quyền chúa Nguyễn, các chúa đã cho tổ chức các đơn vị hành chính ban đầu trên
**Quận Elk** là một quận trong tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng ở Ridgway.. Theo điều tra dân số năm 2010 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có dân số
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Đội Chiến dịch Đặc biệt số 13 (**tiếng Anh: **Special Operation Team No. 13)**, mật danh **Con Nai** (tiếng Anh: **Deer**), hay **Đội Con Nai** (tiếng Anh: **Deer Team**), là một nhóm đặc nhiệm tình
**Bò tót Đông Dương** hay **Bò tót Đông Nam Á** (Danh pháp khoa học: _Bos gaurus laosiensis_ hay _Bos gaurus readei_) là một phân loài của loài bò tót được ghi nhận ở vùng Đông
**Báo sư tử** (_Puma concolor_) hay **báo cuga** (tiếng Anh: **Cougar**) là một loài mèo lớn trong Họ Mèo phân bố ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Phạm vi của nó kéo dài
**Hươu Đại Hạ** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus bactrianus_) hay còn gọi là **Hươu Bactria**, **Hươu Bukhara**, **Hươu Bokhara** là một phân loài của loài hươu đỏ bản địa của vùng Trung Á, chúng
nhỏ|phải|Một con hươu bị mổ bụng, moi [[phủ tạng sau khi bị săn]] **Săn hươu nai** là các hình thức săn bắt, săn bắn các loại hươu, nai. Hình thức này tồn tại từ hàng
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
**Tê giác một sừng Việt Nam** (Danh pháp khoa học: _Rhinoceros sondaicus annamiticus_) là một phân loài của loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) phân bố ở Việt Nam sống ở Việt Nam, Lào,
**Hươu núi Mỹ** (Danh pháp khoa học: **_Odocoileus lucasi_**) là một loài hươu đã tuyệt chủng của nhóm hươu Bắc Mỹ, trong lịch sử nó đã bị nhầm lẫn với loài Navahoceros fricki và được
**Mặt trận giải phóng động vật** (tiếng Anh: **Animal Liberation Front**) viết tắt là **ALF**, là một nhóm hoạt động quốc tế không người lãnh đạo của phong trào giải phóng động vật, tham gia
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Hươu sừng ngắn thân lùn** (_Mazama chunyi_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Artiodactyla. Loài này được Hershkovitz mô tả năm 1959. Loài này có nguồn gốc từ vùng
nhỏ|phải|Cảm xúc buồn bã của một con [[tinh tinh bị giam cầm trong sở thú]] nhỏ|phải|Tâm trạng của những con thỏ trước khi bị làm thịt **Đau buồn ở động vật** là những trải nghiệm
nhỏ|phải|[[Hươu nai, con mồi phổ biến của các loài hổ, báo, sói, gấu...]] **Con mồi** hay **thú mồi** là một thuật ngữ sinh thái học chỉ về một động vật là đối tượng bị săn
nhỏ|phải|Một con [[nai đen tại Thảo cầm viên Sài Gòn, nai là loài thú phổ biến ở Việt Nam]] **Thú** là nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau