Lưu An (chữ Hán: 刘安, 179 TCN – 122 TCN), thường được hậu thế xưng tụng là Hoài Nam tử (淮南子), là Quốc vương chư hầu thứ tư của nước Hoài Nam thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Theo truyền thuyết trong nhân gian, Lưu An là người tinh thông đạo thuật và đã đắc đạo thành tiên, ông cũng được nhiều đạo gia thời sau tôn kính và thờ phụng. Tác phẩm đáng chú ý của ông là Hoài Nam Tử.
Thân thế
Lưu An là con trai trưởng của Hoài Nam Lệ vương Lưu Trường, Quốc vương chư hầu thứ hai của nước Hoài Nam. Hoài Nam Lệ vương Lưu Trường là con trai thứ 7 của Hán Cao Tổ Lưu Bang, do đó Lưu An là cháu nội của Hán Cao Tổ, không rõ mẹ ông là ai. Ông chào đời khoảng năm 179 TCN.
Lưu Trường vào những năm đầu Hán Văn Đế tỏ ra hống hách ngạo mạn, xem thường thiên tử, cuối cùng bị biếm chức và phải tự tử vào năm 174 TCN. Lưu An khi đó mới 4 tuổi, không còn chỗ nương tựa. Hai năm sau, 172 TCN, Văn Đế thương Hoài Nam vương Trường, bèn phong cho bốn người con của Lưu Trường lên tước hầu, trong đó Lưu An được phong làm Phụ Lăng hầu, ba người em khác là Lưu Bột làm An Dương hầu, Lưu Tứ làm Dương Chu hầu, Lưu Lương làm Đông Thành hầu.
Thời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế
Năm 169 TCN, dân chúng trong thành Trường An truyền nhau bài đồng dao thương xót cho Hoài Nam vương Lưu Trường. Văn Đế nghe được việc này, ái ngại chuyện trước đây mình ép chết em, bèn phong cho Thành Dương vương Lưu Hỉ (Cháu nội Tề vương Lưu Phì) làm Hoài Nam vương để kế tục Lưu Trường, tôn Lưu Trường làm Hoài Nam Lệ vương.
Năm 164 TCN, Hán Văn Đế hạ chiếu đưa Lưu Hỉ trở lại làm Thành Dương vương như cũ, sau đó phong cho Lưu An làm Hoài Nam vương, hai người em ông là An Dương hầu Lưu Bột làm Thường Sơn vương, Dương Chu hầu Lưu Tứ làm Lư Giang vương, phân chia nước Hoài Nam cũ ra làm ba phần.
Năm 157 TCN, Văn Đế chết, Cảnh Đế lên ngôi. Năm 154 TCN, hai nước chư hầu Ngô, Sở dẫn đầu 7 nước chư hầu làm phản chống nhà Hán, sai sứ sang Hoài Nam Quốc bàn chuyện liên kết chống Hán. Lưu An định phát binh hưởng ứng, nhưng sau đó nhà Hán đem quân tới cứu Hoài Nam, Lưu An bất đắc dĩ phải thuận theo Hán, quay lưng lại với Ngô - Sở, do đó không bị tội như các chư hầu khác, vẫn được giữ tước vương.
Mưu trả thù cha
Do cha ông là Lưu Trường bị Hán Văn Đế giết chết, nên Lưu An vẫn mang lòng thù hận nhà Hán, muốn phản nghịch tiếm ngôi. Năm Kiến Nguyên thứ hai đời Hán Vũ Đế (139 TCN), Lưu An vào triều yết Vũ Đế, nhân đó liên kết và lấy lòng các đại thần trong triều. Sau đó, ông tiếp đãi nhiều tân khách, thi hành ân đức trong ngoài để thu phục lòng người.
Năm Kiến Nguyên thứ sáu (135 TCN), tuệ tinh xuất hiện trên bầu trời, Lưu An nghe lời biện thuyết của học sĩ, cho rằng thiên hạ sắp có đại biến, mà Vũ Đế lại chưa có con trai, nên ngôi thái tử bỏ trống, các chư hầu sẽ có cơ hội chiếm ngôi, bèn tích cực chuẩn bị quân lương khí giới, trích tiền ban phát cho kẻ sĩ trong thiên hạ. Nhiều biện sĩ đến Hoài Nam, khua môi xu nịnh cũng làm Lưu An hài lòng và thưởng tiền bạc cho chúng. Lưu An còn có con gái là Lưu Lăng, có tài hùng biện, được ông yêu quý, có lần cũng đến Trường An liên kết với đại thần trong triều.
Năm Nguyên Sóc thứ ba (126 TCN), Lưu An đã già, Vũ Đế ban cho ông trượng và cho phép không phải vào triều kiến. Trong nước, Lưu An lập người con trai nhỏ của mình là Lưu Thiên, do vương hậu sinh ra, làm thái tử. Triều đình nhà Hán đem gả con gái của Tu Thành Quân Kim Tục, cháu Hoàng thái hậu nhà Hán cho thái tử Thiên, lập làm thái tử phi. Lưu An sợ thái tử phi biết việc mưu phản của mình, nên ra sức ngăn cản thái tử Thiên tiếp cận thái tử phi, sau thái tử phi không chịu được, bèn rời khỏi Hoài Nam, về Trường An. Trong cung, Vương hậu và thái tử cùng công chúa Lưu Lăng được sủng hạnh, nên làm nhiều điều trái phép, cướp ruộng đất của dân...
Năm Nguyên Sóc thứ năm (124 TCN, thái tử Thiên học dùng kiếm, nghe Lang trung Lôi Bị giỏi về việc này, bèn triệu đến để xem. Bị từ chối nhiều lần, Thái tử Thiên rất giận còn Bị đâm ra lo sợ. Sau đó Bị nhân triều đình Trường An tuyển quân đánh Hung Nô, giữa đường Bị chết ở Trường An. Triều đình nhà Hán sai người đến điều tra Lưu An, Lưu An lo sợ, muốn phát binh tạo phản ngay, nhưng còn do dự chưa quyết suốt mười ngày. Thái tử Thiên khuyên ông nên nhân cơ hội này, giết trung úy do Hán đế cử đến rồi khởi binh. Tuy nhiên sau đó Lưu An không làm theo.
Công khanh nhà Hán tâu lên Vũ Đế xin phế tước vương của Lưu An, Vũ Đế không đồng ý, sau đó lại xin tước 5 huyện, Vũ Đế chỉ ra lệnh xá tội cho Lưu An, tước 2 huyện thực ấp.
Mất mạng vì cháu
Lưu An mời tướng quân Ngũ Bị tới hợp mưu với mình nhưng Ngũ Bị không nghe. Lưu An tức giận, bắt cha mẹ Bị giam vào ngục ba tháng, rồi lại triệu Bị, ép theo mình. Ngũ Bị cũng không nghe và khuyên ông thôi ý định tạo phản, sau đó bỏ đi.
Con trưởng của Lưu An là Lưu Bất Hại, do thứ phi sinh ra nên không được lập làm thái tử. Vương hậu, thái tử và cả Lưu An đều không coi Bất Hại là người trong nhà, cũng không phong cho Bất Hại tước hầu. Con Bất Hại là Lưu Kiến giận vì cha mình không được phong hầu, nên mưu tính diệt trừ thái tử mà thay thế. Thái tử biết việc, tính chuyện điều tra để đối phó Lưu Kiến. Lưu Kiến bèn quyết định dâng thư lên nhà Hán trình bày nỗi oan của mình và tố cáo việc mưu phản của Lưu An. Trong lúc đó, cháu của Tịch Dương hầu Thẩm Tự Cơ là Thẩm Khanh có tư oán với Lưu Trường, nên liên kết với Thương công Công Tôn Hoằng vu tội cho Hoài Nam vương. Trong lúc đó, sứ giả triều Hán đã tới thẩm xét thái tử Hoài Nam. Lưu An lo lắng, muốn phát binh lần nữa, lại hỏi Ngũ Bị. Bị cho rằng nhà Hán đang thịnh trị, không thể làm phản được, sợ sẽ giống như Ngô vương Tị khi xưa, nhưng sau đó lại khuyên ông nên tìm cách giết tướng quốc Hoài Nam để tránh cho nhà Hán biết chuyện này. Lưu An định cho người đốt cung điện, tướng quốc và các đại thần nước Hoài Nam tới cứu hỏa, ông nhân đó giết đi, sau đó chuẩn bị phát binh lên thu phục Hành Sơn, Lư Giang trước, đồng thời sai người giả cách lan truyền trong nhân gian rằng quân Nam Việt sắp tiến đánh.
Cùng lúc đó Hán Vũ Đế phái Đình úy Giám Nhân làm Hoài Nam trung úy, đến Hoài Nam. Trong lúc Lưu An đang tích cực chuẩn bị thì có người đến tố cáo ông với triều đình. Quân Hán bèn kéo sang, bắt thái tử Thiên và Vương hậu, vây vương cung. Trong triều, Triệu vương Bành Tổ và Liệt hầu hơn 40 người xin giết chết Lưu An. Lưu An hoảng sợ, tự sát, thái tử Thiên và Vương hậu bị giết. Ngũ Bị cũng bị Vũ Đế giết hại sau đó. Nước Hoài Nam bị phế trừ, nhập vào làm quận Cửu Giang trực thuộc nhà Hán cai quản.
Lưu An giữ tước Hoài Nam vương 42 năm.
Tác phẩm
Lưu An để lại tác phẩm nổi tiếng là Hoài Nam Tử còn lưu truyền đến ngày nay.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu An** (chữ Hán: 刘安, 179 TCN – 122 TCN), thường được hậu thế xưng tụng là **Hoài Nam tử** (淮南子), là Quốc vương chư hầu thứ tư của nước Hoài Nam thời nhà Hán
**Lưu Ẩn** (, 874–911) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và thời nhà Lương. Ông từng giữ chức vụ Thanh Hải quân Tiết độ sứ, trị sở nay thuộc Quảng Châu, Quảng
**Lưu Ẩn** (chữ Hán: 劉隱, ?-?), tức **Triệu Chiêu vương** (赵昭王), là vị chư hầu vương 14 của nước Triệu, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Ẩn là con trai của
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lê Thị Lựu** (chữ Hán: 黎氏榴, 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu người Việt Nam. Bà được xem
phải|nhỏ|300x300px| Năm vòng hải lưu lớn của đại dương Trong hải dương học, **vòng hải lưu** hay **vòng xoáy hải lưu** là hệ thống dòng chảy xoay vòng lớn của các dòng hải lưu, đặc
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**_Án lệ 11/2017/AL_** về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp là án lệ công bố thứ 11
**Mã Ân** () (853, Tằng tổ phụ của ông tên là Mã Quân (馬筠), tổ phụ của ông tên là Mã Chính (馬正), còn cha của ông tên là Mã Nguyên Phong (馬元豐). Gia đình
**Lựu** hay còn gọi là **thạch lựu** (Danh pháp khoa học: _Punica granatum_) là một loài thực vật ăn quả thân gỗ nhỏ có chiều cao từ 5-8 mét thuộc chi Lựu, họ Bằng lăng,
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lưu Diệu** () (?-329), tên tự **Vĩnh Minh** (永明), là hoàng đế thứ năm của nước Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 318 sau khi hầu hết
phải|nhỏ|Biểu tượng của Ấn Độ giáo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một ngôi đền Ấn Độ giáo **Ấn Độ giáo**, **Ấn giáo** hay **Hindu giáo** (Hưng đô giáo) là một tôn giáo, hệ thống tín
**Lưu Hiểu Ba** (, bính âm: _Liú Xiǎobō;_ 28 tháng 12 năm 1955 – 13 tháng 7 năm 2017) là một nhà hoạt động nhân quyền và trí thức Trung Quốc. Ông từng là Chủ
**Lưu Bình Nhưỡng** (sinh ngày 4 tháng 2 năm 1963) là một tiến sĩ Luật, giảng viên đại học, chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
**Năng lượng sinh học kết hợp thu nạp và lưu trữ carbon** (BECCS – Bio-energy with carbon capture and storage) là quá trình khai thác năng lượng sinh học từ sinh khối và đồng thời
**_Án lệ 10/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 10 thuộc hệ thống hành chính của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
**_Án lệ 18/2018/AL_** về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội giết người là án lệ công bố thứ 18 thuộc lĩnh vực hình sự của Tòa án nhân dân tối
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**An Phong**, thường được biết đến với nghệ danh **Lưu Diệc Phi** (; , sinh ngày 25 tháng 8 năm 1987), là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm ca sĩ người Mỹ gốc Hoa.
**Lý An Dân** (chữ Hán: 李安民, 427 - 486), người huyện Thừa, quận Lan Lăng , tướng lãnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề. Vì Lý Duyên Thọ biên soạn Nam sử vào đời Đường,
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Phố cổ Hội An** là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km
**Văn minh lưu vực sông Ấn Độ**, **Văn minh sông Ấn** hay **Văn hóa sông Ấn**, cũng còn được gọi là **Văn hóa Harappa** theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính,
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Phan Đăng Lưu** (5 tháng 5 năm 1902 – 26 tháng 8 năm 1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng theo xu hướng Cộng sản ở Việt Nam với mục tiêu "cộng hòa
thumb|upright=1.35|Bản sao lựu đạn Thế chiến II trưng bày **Lựu đạn** là một vũ khí vỏ cứng nhỏ thường được ném bằng tay (còn gọi là **lựu đạn cầm tay**), nhưng cũng có thể chỉ
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lịch sử hành chính Nghệ An** có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1831 với cải cách hành chính của Minh Mạng, chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Nông Văn Lưu** là Phó giáo sư, Tiến sĩ, Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2, Bộ Công an (Việt
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Lưu Minh Truyền** (, 07 tháng 09 năm 1836 – 12 tháng 01 năm 1896), còn đọc là **Lưu Minh Truyện**, tên tự là **Tỉnh Tam** (省三), hiệu là **Đại Tiềm Sơn Nhân**, người Tây
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Ân Ngọc Anh** (chữ Hán: 殷玉英, ? - 453) là một hoàng hậu có thời gian tại vị ngắn ngủi của hoàng đế Nguyên Hung Lưu Thiệu triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.
**Hội An** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Quảng Nam cũ tại Việt Nam. Phố cổ Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, gồm những di sản kiến trúc đã
**Vương quốc Lưu Cầu** (tiếng Okinawa: _Ruuchuu-kuku_; _Ryūkyū Ōkoku_; ) là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống
**Lưu Long** (, ? – 57), tên tự **Nguyên Bá** (元伯), người Nam Dương , tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. Ông
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Phúc Thông** (, 1320-1367), người Tây Lưu Doanh, Dĩnh châu, phủ Nhữ Ninh, thủ lĩnh trên thực tế của phong trào khởi nghĩa Khăn Đỏ ở miền bắc Trung Quốc vào cuối đời Nguyên.
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:More_China_040.JPG|nhỏ|Mặt tiền trụ sở Tòa án nhân dân tối cao ở [[Bắc Kinh, Trung Quốc.]] **Tòa án nhân dân tối cao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là cơ quan xét xử cao nhất của
**Huỳnh Văn Lưu** (sinh ngày 26 tháng 10 năm 1961) là kiểm sát viên cao cấp và thẩm phán Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng