✨Phan Đăng Lưu
Phan Đăng Lưu (5 tháng 5 năm 1902 – 26 tháng 8 năm 1941) là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng theo xu hướng Cộng sản ở Việt Nam với mục tiêu "cộng hòa - dân chủ" của Đảng Tân Việt (Phan Đăng Lưu là một trong những Lãnh đạo của Đảng này, một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông dương). Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam như: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1937), Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng (năm 1938).
Thân thế
Phan Đăng Lưu sinh ngày 5 tháng 5 năm 1902 tại xã Tràng Thành (nay là Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An là con trai cả của cụ nho yêu nước Phan Đăng Dư và cụ bà Trần Thị Liễu (con gái cụ cử nhân Trần Danh Tiêu). Theo nhiều tài liệu, ông Đăng Lưu là hậu duệ đời thứ 15 của một hoàng tử nhà Mạc tên Mạc Mậu Giang. Sau khi nhà Mạc đổ, cụ Mạc Mậu Giang đưa con cháu vào Nghệ An lập nghiệp. Một người con là Mạc Huyền Nhai trở thành thủy tổ của dòng họ Phan Mạc tại Yên Thành, một nhánh họ trong đó là tộc Phan Đăng.
Hoạt động cách mạng
Thuở nhỏ, ông có tiếng học giỏi thông minh, khi mới 16 tuổi, ông đã tham dự kỳ thi Hương, dù phải khai tăng thêm 2 tuổi để được đi thi (1918). Tuy nhiên do Nho học không còn được trọng, ông học thêm chữ Quốc ngữ và chữ Pháp tại Trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh và Trường Quốc học Huế.
Khi học hết năm đầu bậc trung học tại Trường Quốc học Huế, ông quyết định thi vào Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang, vì ông cho rằng "hiện nay ích nước, lợi dân không gì bằng mở mang nông nghiệp, mà muốn thế, thì phải thâu thái những cái hay của các nước văn minh trong nghề đó". Sau khi tốt nghiệp hạng ưu năm 1923, ông được bổ vào ngạch Thông phán, làm nhân viên tại Sở Canh nông Bắc Kỳ, vì vậy còn được gọi là ông Phán Tằm.
Cuối năm 1925, ông được đổi về Sở Canh nông Nghệ An tại Vinh. Tại đây, ông có những liên lạc với một số thành viên Hội Phục Việt, thường xuyên trao đổi thời cuộc và tìm đọc các tài liệu cách mạng. Chính thời gian này, ông đã được tiếp xúc với những tài liệu Cộng sản đầu tiên bằng tiếng Pháp như Le Capital của Karl Marx và Le Procès de la colonisation française của Nguyễn Ái Quốc.
Cuối năm 1925, ông ký tên vào bản yêu sách đòi chính quyền thực dân Pháp trả lại tự do cho chí sĩ Phan Bội Châu. Do việc làm này, tháng 8 năm 1926, chính quyền thực dân đã đổi ông về làm việc ở nhà tằm Diễn Châu để tách ông ra khỏi các ảnh hưởng của phong trào cách mạng tại Vinh. Cuối năm 1926, ông được các ông Trần Văn Cung, Võ Mai, thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội vừa dự lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu về nước, liên lạc tuyên truyền cách mạng và phát triển tổ chức. Không lâu sau, ông lại bị đổi vào Bình Định rồi Đồng Nai Thượng (nay thuộc Lâm Đồng). Tuy nhiên, dù ở đâu, ông vẫn bộc lộ quan điểm chống chính quyền thực dân Pháp. Vì vậy, giữa năm 1927, ông bị thải hồi vì "vô kỉ luật, hoạt động chống đối".
Tháng 3-1938, Hội nghị đại biểu cả ba Xứ ủy bầu ra Ban Chấp hành mới, Phan Đăng Lưu và Lê Duẩn lập ra Ban Thường vụ, Hà Huy Tập thôi chức Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư mới
Tháng 9-1939, ông được điều động vào Nam Kỳ hoạt động và được Trung ương phân công phụ trách phong trào cách mạng các tỉnh Nam Kỳ
Tháng 11-1939, ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tại Bà Điểm, Hóc Môn và đã góp phần quan trọng trong việc đề ra đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, tiến tới giai đoạn dân tộc giải phóng
Từ tháng 4-1940 đến Hội nghị Tái lập Ban Chấp hành Trung ương, ông trực tiếp lãnh đạo điều hành hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương (thực hiện vai trò, chức trách của Tổng Bí thư)
Tháng 7-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp, đề ra chủ trương khởi nghĩa. Lấy tư cách đại diện Trung ương đến dự, với phân tích sâu sắc ông đã chỉ rõ những nguyên tắc khởi nghĩa: "Không thể nhìn một địa phương mà đánh giá tình hình, mà phải nhìn cả nước, nhìn thế giới và mọi mặt mới có thể đánh giá đúng được; Không thể đùa với khởi nghĩa, không thể đưa quần chúng đến chỗ hy sinh vô ích; Phải có lệnh của Trung ương mới được thi hành" và ông khuyên Xứ ủy hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương.
Tháng 10-1940, ông bí mật từ miền Nam ra Bắc để tiến hành triệu tập và tổ chức Hội nghị Tái lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chính thức chuyển cơ quan Trung ương từ Nam ra Bắc.. Đây là "công lao to lớn nhất của Phan Đăng Lưu"/ nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Kỷ niệm 120 năm ngày sinh đ/c Phan Đăng Lưu” (Ban Tuyên giáo TW, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Nghệ An):
Tháng 11-1940, tại Đình Bảng, Bắc Ninh, ông chủ trì Hội nghị Tái lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường gọi là Hội nghị Trung ương 7. Tại Hội nghị, ông được đề cử làm Tổng Bí thư, nhưng ông không nhận, vì ông cho rằng mình cần về miền Nam, trong đó Xứ ủy và nhân dân đang ngóng chờ kết quả chuyến đi và đề phòng ông bị bắt, sẽ gây trở ngại cho Trung ương mới được củng cố ở miền Bắc. Ngay sau Hội nghị, ông quay trở lại miền Nam để hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ, theo quyết định của Hội nghị Trung ương. Nhưng do có kẻ chỉ điểm, ông đã bị mật thám Pháp bắt vào đêm 22-11-1940 khi vừa mới đặt chân về Sài Gòn, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương về việc hoãn khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra ngày 23-11-1940.
Ngày 3-3-1941, Pháp mở tòa án binh, Phan Đăng Lưu bị thực dân Pháp kết án tử hình, với hai điều buộc tội chủ yếu: tham dự một cuộc họp bí mật sau đó lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc đã được phát đi và thảo lời kêu gọi cho quân đội cách mạng. Ngày 26-8-1941 (tức ngày 04/07 âm lịch, hiện nay gia đình Phan Đăng Lưu lấy ngày này làm ngày giỗ chính thức) ông bị xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Tháng 11-1998, gia đình Phan Đăng Lưu xin phép Trung ương Đảng cho được tìm mộ, đã tìm bằng phương pháp ngoại cảm và tìm thấy vào ngày 8-11-1998 tại khu vực xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn. Cải táng vào tháng 4-1999, ảnh Lễ Cải táng được đăng tải trên Báo Nghệ An cuối tuần - năm thứ 41, số 5881, ngày 5-5-2002 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Phần mộ ông được đặt tại Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.
Hình ảnh công cộng
Hiện tên của ông được đặt cho nhiều trường học, nhiều đường phố và địa danh ở Việt Nam như: Hà Giang, Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh (Hạ Long), Hải Dương, Hải Phòng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Quy Nhơn), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang và Phú Yên.
Gia đình
Thân phụ ông là cụ Phan Đăng Dư (1874-1955), còn có tên là Phan Đăng Kính, lúc sinh thời bà con làng Tràng Thành thường gọi là Cụ Phán, bởi cụ có bốn người con trai, trong đó có ba người làm Thông phán là Phan Đăng Lưu (Phán Tằm), Phan Đăng Triều (Phán Triều), Phan Đăng Tài (Phán Tài). Cả ba người về sau đều hoạt động cách mạng chống chính quyền thực dân Pháp.
Cụ Phan Đăng Dư thời trẻ từng dự thi Hương Trường Nghệ nhưng không đỗ đạt, về nhà làm nghề bốc thuốc nam, làm thầy địa lý để giúp đỡ dân làng và giao du với bạn bè. Năm 1908, cụ cùng Cử nhân Chu Trạc tập hợp những người nghĩa khí vào “Nghĩa đảng” để mưu đồ sự nghiệp chống Pháp, nhưng về sau bị chính quyền thực dân bắt bớ và bị đánh hỏng bàn tay cầm bút. Một điểm rất đặc biệt, ông bà Lưu đã rất chú trọng cho con "cái chữ", vì cha đi làm cách mạng, con trai phải cho theo người chú ruột là Phan Đăng Tài, làm việc tại Hà Tĩnh để được đi học, còn con gái nông thôn thời đó thường không được học, thế nhưng ông bà Lưu đã cho con gái đến trường, nhưng do bị chọc ghẹo (bà Lê kể) nên phải bỏ học ở trường, ông bà Lưu lại phải nhờ thầy đến dạy học cho con gái tại nhà... / Theo "Hồi ký ngược nguồn", tác giả Trần Nguyên Trinh (TNTr)- nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An (1952-1953) (chồng bà Lê/ con rể ông bà Lưu) viết: "Vợ tôi lớn lên dưới ảnh hưởng tinh thần của người cha đáng kính và trong tình yêu thương của người mẹ đáng quý như vậy đó. Lúc nhỏ cũng được học hai ba năm ở trường làng, biết đọc viết thông thạo, con gái thời đó được như vậy là hiếm có rổi. Người ta ít cho con gái đi học, ngay ở những gia đình đại phú...". Bà Danh về sau tham gia Việt Minh, thành viên Hội Phụ nữ Cứu quốc và trở thành Ủy viên Chấp Ủy Việt Minh làng Tràng Thành từ tháng 12 năm 1945, sau đó tiếp tục là Hội trưởng phụ nữ xã Tràng Thành nhiều năm.
Thời gian hoạt động ở Huế, ông kết hôn với bà Lê Thị Nhồng, giao thông viên của Xứ ủy Trung kỳ và đã có chung một người con trai là Phan Đăng Luyến. Sau khi ông bị xử tử, bà Nhồng đưa con về quê Tràng Thành ở với ông bà. Về sau bà Nhồng tái giá với ông Bính, một cựu tù chính trị quê ở huyện Nghi Lộc.
Vinh danh
Hiện nay, tên của ông đã được đặt cho nhiều con đường và ngôi trường ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước: Nghệ An, TP.Hồ Chí Minh, Huế, Đắk Lắk, Hải Phòng,...