✨Linh dương sừng mác
Linh dương sừng mác (tiếng Anh: Scimitar oryx hoặc Scimitar-horned oryx, hay còn có tên Sahara oryx), danh pháp hai phần: Oryx dammah, là một loài linh dương thuộc chi Oryx hiện nay đã tuyệt chủng trong tự nhiên. Loài này trước đây sinh sống khắp Bắc Phi. Có một lịch sử phân loại dài kể từ khi Lorenz Oken phát hiện ra chúng vào năm 1816. Ông đã đặt danh pháp loài là Oryx algazel. Linh dương sừng mác khi đứng có bờ vai thấp, chỉ cao hơn . Linh dương đực nặng , còn linh dương cái nặng . Bộ lông có màu trắng với phần ngực nâu đỏ, vệt đen trên trán kéo dài xuống mũi. Linh dương non khi sinh ra có bộ lông màu vàng, những mảng màu đặc trưng ban đầu thiếu vắng. Lông thay đổi theo màu sắc trưởng thành khi 3-12 tháng tuổi.
Linh dương sừng mác hình thành đàn hỗn giới (cả đực lẫn cái) lên đến 70 thành viên, thường do linh dương đực dẫn đầu. Chúng cư trú tại vùng bán hoang mạc hay hoang mạc, thích nghi sinh sống dưới cái nóng khắc nghiệt, với cơ chế làm mát hiệu quả và nhu cầu rất thấp đối với nước. Linh dương tìm ăn tán lá, cỏ, thực vật mọng nước và các bộ phận thực vật vào thời điểm đêm tối hoặc sáng sớm. Sinh sản cao điểm giữa tháng 3 và tháng 10. Sau thai kỳ từ 8 đến 9 tháng, một con non được sinh ra. Ngay sau đó, linh dương cái sẽ động dục hậu sản.
Linh dương sừng mác từng phổ biến khắp Bắc Phi. Chúng bắt đầu sụt giảm do kết quả của biến đổi khí hậu. Sau đó, chúng còn bị săn bắt rộng rãi để lấy sừng. Ngày nay, linh dương được nuôi trong điều kiện nuôi nhốt tại nhiều khu bảo tồn đặc biệt ở Tunisia, Maroc và Sénégal. Linh dương sừng mác được thuần hóa thời Ai Cập cổ đại nhằm cung cấp thực phẩm và vật hiến tế dâng lên các vị thần. Tầng lớp thượng lưu thời La Mã cổ đại cũng nuôi loài này. Việc sử dụng tấm da trị giá của linh dương bắt đầu vào thời Trung Cổ. Huyền thoại kỳ lân một sừng có thể bắt nguồn từ hình dạng linh dương sừng mác khi bị gãy một chiếc sừng.
Danh mục phân loại và đặt danh pháp
Linh dương sừng mác là thành viên thuộc chi Oryx, họ Trâu bò. Nhà tự nhiên học người Đức Lorenz Oken lần đầu tiên mô tả loài này vào năm 1816, đặt danh pháp Oryx algazel. Danh pháp đã trải qua nhiều thay đổi kể từ đó, với sự ra đời của những danh pháp như Oryx tao, O. leucoryx, O. damma, O. dammah, O. bezoarticus và O. ensicornis. Năm 1826, Philipp Jakob Cretzschmar sử dụng danh pháp Oryx ammah cho loài này. Một năm sau, danh pháp Orys leucoryx được đưa vào sử dụng, nhưng do đây là một danh pháp đồng nghĩa của linh dương sừng thẳng Ả Rập (về sau được đặt Oryx beatrix), danh pháp bị loại bỏ và Oryx algazel đã được chấp nhận một lần nữa. Hơn một trăm năm sau, vào năm 1951, Sir John Ellerman và Terence Morrison-Scott nhận ra sự vô hiệu của danh pháp Oryx algazel. Cuối cùng, vào tháng 1 năm 1956, hiệp hội danh pháp động vật học quốc tế chấp nhận Oryx dammah là danh pháp hai phần của loài linh dương này. Không có nhiều thay đổi kể từ đó, mặc dù nhiều tài liệu xuất bản sau năm 1956 gây nhầm lẫn bằng cách sử dụng những danh pháp như O. gazella tao.
Danh pháp khoa học, Oryx dammah, khởi nguồn từ: tiếng Hy Lạp cổ đại (orux), nghĩa là linh dương Gazelle hoặc linh dương (sừng dài nhọn như cuốc chim); tiếng Latin damma (hươu hoang hoặc linh dương); tiếng Ả Rập dammar (con cừu). hình dáng giống như thanh kiếm (scimitar) cong. Nghiên cứu phân tử đầu tiên về loài này (xuất bản năm 2007) quan sát sự đa dạng di truyền giữa châu Âu, Bắc Mỹ và một số nhóm khác được nuôi nhốt. Phân kỳ tìm được trong DNA ti thể dạng đơn bội, ước tính đã diễn ra khoảng giữa 2,1 và 2,7 triệu năm trước. Gia tăng số lượng xảy ra xấp xỉ 1,2 và 0,5 triệu năm trước.
Trong một nghiên cứu khác, nhằm lưu ý sự khác biệt di truyền giữa các loài linh dương thuộc chi Oryx, kiểu nhân tế bào của những loài Oryx và phân loài – cụ thể là O. gazella, O. b. beisa, O. b. callotis, O. dammah và O. leucoryx – được so sánh với kiểu nhân tế bào chuẩn của bò nhà (Bos taurus). Số lượng thể thường nhiễm sắc trong tất cả kiểu nhân tế bào là 58. Nhiễm sắc X và Y giữ gìn trong cả năm loài.
Ngoại hình
left|thumb|Hình thể tương tự loài ngựa, đặc điểm loài thuộc phân họ Mã linh
Kích thước
Linh dương sừng mác khi đứng, bờ vai chỉ cao hơn . Con đực nặng , còn con cái nặng . Thân hình đo được từ đầu đến hết đuôi. Đuôi dài khoảng và kết thúc tại một chùm lông. Linh dương đực lớn hơn so với linh dương cái.
Lông
thumb|Cận cảnh cặp sừng giống thanh kiếm (scimitar)
Bộ lông có màu trắng với phần ngực nâu đỏ và vệt đen trên trán kéo dài xuống mũi. Bộ lông phản xạ tia nắng mặt trời, trong khi vệt đen và chóp lưỡi cung cấp khả năng bảo vệ chống lại sự rám nắng. Bộ lông trắng giúp phản xạ sức nóng sa mạc.
Sừng mác
Cả linh dương đực lẫn cái đều sở hữu cặp sừng dài thẳng, nhưng sừng linh dương cái mảnh mai hơn.
Bệnh tật và ký sinh trùng
Linh dương sừng mác có thể bị nhiễm chứng cryptosporidiosis, một bệnh ký sinh gây ra bởi ký sinh đơn bào thuộc chi Cryptosporidium trong ngành Apicomplexa. Nghiên cứu năm 2004 cho biết rằng C. parvum hoặc ký sinh tương tự lây nhiễm cho 155 loài động vật có vú, bao gồm cả linh dương sừng mác. Phân tích năm 2005 cho biết ký sinh Cryptosporidium xuất hiện trong mẫu phân của 100 loài động vật có vú, bao gồm cả linh dương sừng mác. Kén hợp tử của loài ký sinh mới, Eimeria oryxae, được phát hiện trong phân của linh dương sừng mác tại vườn thú ở Riyadh. Tại Pháp, ký sinh Streptococcus uberis được phân lập lần đầu từ một cá thể. Chúng gây ra hội chứng sinh dưỡng viêm màng trong tim ở động vật, dẫn đến xung huyết suy tim gây tử vong.
Một nghiên cứu năm 1983 đã kiểm tra huyết thanh máu hóa học của mẫu máu lấy từ tĩnh mạch 50 cá thể linh dương sừng mác khác nhau từ con non đến con trưởng thành trên 13 năm tuổi. Nghiên cứu kết luận rằng tế bào eosinophil cao đếm được ở linh dương chưa trưởng thành và linh dương trưởng thành có thể phản ánh gánh nặng ký sinh trùng trong cơ thể con vật lớn hơn so với linh dương sơ sinh.
Sinh thái và hành vi
Linh dương sừng mác là loài rất gắn bó và di chuyển theo bầy đàn khoảng giữa 2 - 40 cá thể, do một con đực nổi trội dẫn đầu. Loài này mỗi lần tụ tập thành từng đàn lên đến vài ngàn con di cư. Vào mùa mưa, chúng di cư về phía bắc tiến vào Sahara.
Sự thích nghi
Với một hệ thống trao đổi chất thực hiện chức năng khi nhiệt độ cao thịnh hành trong môi trường sống khắc nghiệt, linh dương sừng mác cần ít nước bốc hơi để giúp thoát nhiệt ra khỏi cơ thể, cho phép chúng di chuyển trong thời gian dài mà không có nước. Loài có thể cho phép nhiệt độ cơ thể tăng lên gần trước khi bắt đầu toát mồ hôi.
Hoạt động tán tỉnh được thực hiện theo một vòng tròn giao phối: đực và cái đứng song song với nhau, đối mặt theo hướng ngược lại và sau đó vòng quanh cho đến khi con cái cho phép con đực cưỡi lên từ phía sau. Nếu linh dương cái không sẵn sàng giao phối, nó bỏ chạy và vòng theo hướng ngược lại. và hoang mạc tại dải đất hẹp miền trung bắc Phi (Niger và Tchad).
Tình trạng và bảo tồn
thumb|Đàn linh dương tại [[vườn thú Brevard ở Viera, Florida]] Linh dương sừng mác đã bị săn bắt gần như tuyệt chủng nhằm lấy cặp sừng. Suy giảm quần thể bắt đầu do kết quả biến đổi khí hậu nghiêm trọng khiến sa mạc Sahara trở nên khô cằn. Quần thể phía bắc gần như mất đi trước thế kỷ thứ 20. Suy giảm quần thể phía nam tiến triển nhanh hơn khi người châu Âu bắt đầu định cư khu vực và săn bắt linh dương lấy thịt, da và cặp sừng. Chiến tranh thế giới II và Nội chiến ở Tchad bắt đầu vào những năm 1960 được cho gây ra hậu quả loài bị sụt giảm nặng nề thông qua nạn săn bắn gia tăng nhằm cung ứng thực phẩm. Vấn nạn động vật bị cán chết trên đường, cộng đồng người du mục sống gần hố nước (nơi linh dương kiếm ăn mùa khô) và súng cầm tay phục vụ săn bắn dễ dàng cũng khiến số lượng suy giảm.
IUCN liệt kê linh dương sừng mác vào danh sách loài tuyệt chủng trong khu vực tại Algérie, Burkina Faso, Tchad, Ai Cập, Libya, Mali, Mauritanie, Maroc, Niger, Nigeria, Sénégal, Sudan, Tunisia và Tây Sahara, ước định loài đã tuyệt chủng trong tự nhiên từ năm 2000. Báo cáo được trông thấy tại Tchad và Niger vẫn vô căn cứ, mặc dù những cuộc điều tra bao quát được thực hiện xuyên suốt Tchad và Niger từ 2001 đến 2004 trong nỗ lực phát hiện linh dương tại dãy Sahel và hoang mạc Sahara. Ít nhất cho đến năm 1985, 500 con linh dương sừng mác ước tính được sống sót tại Tchad và Niger, nhưng đến năm 1988, chỉ còn vài cá thể sống sót trong môi trường hoang dã. Năm 2005, ít nhất 1.550 cá thể được quản lý như một phần của chương trình nhân giống và năm 2008, hơn 4.000 được tin sẽ nhân giống ở các khu tư nhân tại Liên minh tiểu quốc Ả Rập thống nhất. công viên quốc gia Sidi Toui (1999) và công viên quốc gia Oued Dekouk (1999) ở Tunisia; công viên quốc gia Souss-Massa (1995) tại Morocco; khu bảo tồn Ferlo Faunal (1998) và khu bảo tồn hoang dã Guembuel (1999) ở Sénégal. Nhóm đầu tiên được phóng thích vào đầu năm 2016 tại một khu rào chắn hợp khí hậu và nên được phóng thích hoàn toàn về hoang dã trong mùa mưa.
Trong văn hóa
thumb|Minh họa [[unicorn|kỳ lân một sừng khắc gỗ, từ tác phẩm The History of Four-Footed Beasts and Serpents của Edward Topsell]]
Thời trung cổ
Thời Ai Cập cổ đại, linh dương sừng mác là vật nuôi trong nhà Loài này được gọi là ran và được nuôi nhốt. Thời La Mã cổ đại, linh dương được nuôi giữ trên các bãi cỏ chăn thả, dùng trong hoạt động đua ngựa và cho tầng lớp thượng lưu La Mã ăn thịt. Linh dương sừng mác là loài thú săn ưa thích của thợ săn Sahelo-Sahara. Da linh dương có chất lượng cao, nhà vua Rio de Oro từng ban tặng 1000 tấm khiên làm từ da linh dương xuống cho các binh sĩ đương thời vào thời Trung cổ. Từ đó, da linh dương được dùng làm dây thừng, áo giáp và yên cương. Từ góc độ nào đó, linh dương sừng mác có thể dường như có một sừng chứ không phải hai. Giới học giả cho rằng sừng cấu tạo từ xương rỗng không thể tái sinh trở lại, nếu một con linh dương sừng mác mất một trong hai chiếc sừng, phần đời còn lại sẽ chỉ còn một sừng.