✨Linh dương sừng xoắn châu Phi
Linh dương sừng xoắn châu Phi (danh pháp hai phần: Addax nasomaculatus), còn được gọi là linh dương trắng (white antelope) là một loài linh dương thuộc chi Addax, sinh sống tại hoang mạc Sahara và một số vùng lân cận. Loài này được Henri de Blainville mô tả năm 1816. Theo đề xuất tên thay thế, linh dương lông nhạt có sừng dài, xoắn - điển hình dài ở con cái và ở con đực. Linh dương đực khi đứng bờ vai cao từ , còn linh dương cái cao khoảng từ . Đây là loài lưỡng hình giới tính, linh dương cái nhỏ hơn linh dương đực. Màu sắc bộ lông phụ thuộc theo mùa - vào mùa đông, bộ lông nâu xám còn chân và phần cơ thể sau có màu trắng, và lông nâu, dài mọc trên đầu, cổ, vai; vào mùa hè, bộ lông trở lại gần như hoàn toàn màu trắng hoặc màu cát vàng.
Linh dương sừng xoắn châu Phi chủ yếu ăn cỏ, lá của bất kỳ loại cây bụi nào sẵn có, thực vật họ đậu hay bụi rậm. Là loài động vật thích nghi tốt để tồn tại trong môi trường sa mạc, linh dương có thể sống mà không cần nước trong thời gian dài. Chúng sống theo đàn từ 5 đến 20 cá thể, gồm cả đực lẫn cái. Chúng được dẫn dắt bởi con cái lớn tuổi nhất. Do chuyển động chậm chạp, chúng là mục tiêu dễ dàng của động vật săn mồi như: sư tử, con người, chó săn châu Phi, báo đốm và báo hoa. Mùa sinh sản đỉnh điểm trong suốt mùa đông và đầu mùa xuân. Môi trường sống tự nhiên là những vùng đất khô cằn, bán hoang mạc và sa mạc cát và đá.
Linh dương sừng xoắn châu Phi là loài linh dương cực kỳ nguy cấp, theo phân loại do IUCN. Mặc dù cực kỳ hiếm trong môi trường tự nhiên do săn bắn không kiểm soát, chúng khá phổ biến trong điều kiện nuôi nhốt. Linh dương sừng xoắn châu Phi xuất hiện nhiều ở Bắc Phi, là loài bản địa tại Chad, Mauritania và Niger. Loài cũng đã tuyệt chủng ở Algeria, Ai Cập, Libya, Sudan và Tây Sahara nhưng đồng thời được tái nhập ở Morocco và Tunisia.
Danh mục phân loại và đặt tên
Danh pháp hai phần của Linh dương sừng xoắn châu Phi là Addax nasomaculatus. Loài này lần đầu tiên được nhà động vật học và giải phẫu học người Pháp Henri Blainville mô tả năm 1816. Linh dương sừng xoắn châu Phi được xếp vào chi đơn loài Addax và họ Bovidae. Danh pháp loài nasomaculatus bắt nguồn trong tiếng Latin, chiết tự nasus (hoặc tiền tố naso) nghĩa là mũi, và macula, vết đốm hoặc khoang, và hậu tố –atus đề cập đến những đốm và dấu vết trên mặt linh dương. Bedouin sử dụng danh pháp khác cho Linh dương sừng xoắn châu Phi, theo tiếng Ả Rập bakr (hoặc bagr) al wahsh, dịch theo từng chữ có nghĩa con bò hoang dã. Danh pháp cũng có thể được sử dụng để tham khảo cho những loài động vật móng guốc khác. Tên gọi thông dụng khác của Linh dương sừng xoắn châu Phi là "linh dương trắng" (white antelope) và "linh dương sừng xoay" (screwhorn antelope).
Di truyền học
Linh dương sừng xoắn châu Phi có 29 cặp nhiễm sắc thể. Tất cả nhiễm sắc thể đều là nhiễm sắc dạng que ngoại trừ cặp thể thường nhiễm sắc đầu tiên, đó là nhiễm sắc thể hạ khuynh tâm. Nhiễm sắc thể X lớn nhất trong số các nhiễm sắc thể dạng que, còn nhiễm sắc thể Y có kích thước trung bình. Cặp nhiễm sắc thể hạ khuynh tâm có que ngắn và dài tương ứng theo thứ tự với nhiễm sắc thể thứ 27 ở bò nhà và thứ 1 ở dê nhà. Trong một nghiên cứu, mô hình dải nhiễm sắc trong Linh dương sừng xoắn châu Phi tìm được tương tự như trong bốn loài khác thuộc phân họ Hippotraginae.
Ghi chép lịch sử và hóa thạch
Trong thời cổ đại, linh dương sừng xoắn châu Phi cư trú từ Bắc Phi vượt qua bán đảo Ả Rập và Levant. Tranh vẽ trong một ngôi mộ có niên đại từ năm 2500 trước Công nguyên cho thấy tối thiểu linh dương sừng xoắn châu Phi được người Ai Cập cổ đại thuần hóa một phần. Những bức tranh vẽ hình linh dương sừng xoắn châu Phi và một số loài linh dương khác được cột bằng dây thừng với cọc. Số lượng linh dương sừng xoắn châu Phi được một quý tộc chiếm giữ, xem như biểu thị cho địa vị cao về kinh tế lẫn xã hội của ông ta trong xã hội cổ đại.
Hóa thạch linh dương sừng xoắn châu Phi tìm được tại bốn địa điểm ở Ai Cập - hóa thạch 7000 TCN từ Biển Cát Lớn, hóa thạch 5000–6000 TCN từ Djara, hóa thạch 4000–7000 TCN từ Abu Ballas Stufenmland và hóa thạch 5000 TCN từ Gilf Kebir. Bên cạnh đó, nhiều hóa thạch cũng được khai quật từ Mittleres Wadi Howar (hóa thạch 6300 TCN), cùng những hóa thạch canh tân từ Grotte Neandertaliens, Jebel Irhoud và Parc d'Hydra. Chiều đài từ đầu đến hết thân cả đực và cái đạt khoảng , đuôi dài . Cân nặng con đực khoảng từ , con cái khoảng từ . Đầu được đánh dấu bằng các mảng màu nâu hoặc đen có hình chữ 'X' trên mũi. Linh dương có râu thô và lỗ mũi đỏ nổi bật. Lông đen dài nhô ra giữa cặp sừng cong và xoắn ốc, kết thúc tại mảng lông bờm ngắn trên cổ. Tất cả bốn chân đều có tuyến mùi hơi. Chúng luôn bị nhiễm ký sinh giun tròn thuộc họ Trichostrongyloidea và Strongyloidea. Tại 1 trang trại ngoại lai ở Texas, một con linh dương bị nhiễm loài giun Haemonchus contortus và Longistrongylus curvispiculum trong dạ dày múi khế,
Hành vi và sinh thái
Là loài chủ yếu hoạt động về đêm, đặc biệt vào mùa hè. Trong ngày, linh dương đào sâu vào cát tại vị trí râm mát và nghỉ ngơi trên hố lõm đào được, hành động này bảo vệ linh dương tránh khỏi bão cát. Linh dương sừng xoắn châu Phi sống theo đàn có cả đực lẫn cái, và có từ 5 đến 20 cá thể. Chúng sẽ thường lưu lại một địa điểm và chỉ đi lang thang khắp nơi để tìm thức ăn. Linh dương sừng xoắn châu Phi có một cấu trúc xã hội bền chặt, dựa vào tuổi tác, đàn được dẫn dắt bởi con cái lớn tuổi nhất. trong khi con cái thiết lập nhóm thống trị riêng của chúng.
Do chuyển động chậm, linh dương sừng xoắn châu Phi là mục tiêu dễ dàng cho động vật ăn thịt như sư tử, chó hoang châu Phi, báo gêpa và báo hoa. Linh miêu tai đen, linh cẩu và linh miêu đồng cỏ tấn công con non. Linh dương sừng xoắn châu Phi thường không hung hăng, mặc dù tính khí có thể thay đổi nếu bị kích động. Màu sắc nhợt nhạt của lông phản xạ nhiệt bức xạ, độ dài và độ dày của lông giúp điều hòa thân nhiệt. Trong ngày, Linh dương sừng xoắn châu Phi tụ tập với nhau tại khu vực bóng râm, đến đêm mát nghỉ ngơi trên những hố cát lõm. Những hoạt động này giúp tản nhiệt cơ thể và tiết kiệm nước bằng cách làm mát cơ thể thông qua sự bốc hơi.
Khẩu phần
thumb|Con non và linh dương mẹ
Linh dương sừng xoắn châu Phi sống trên địa hình sa mạc, nơi chúng ăn cỏ và lá của những loại cây bụi, quả đậu thảo mộc và bụi rậm có sẵn. Thức ăn chủ yếu của loài là cỏ thuộc những chi Aristida, Artemisia, Citrullus và Acacia; thực vật lâu năm thay lá xanh và nảy mầm khi gặp độ ẩm nhẹ hoặc khi có mưa. Linh dương sừng xoắn châu Phi chỉ ăn những bộ phận cây xanh cố định và có xu hướng gặm cỏ Aristida gọn gàng đến khi thảm cỏ có cùng một chiều cao. Ngược lại, khi gặm cỏ Panicum, lá ngoài khô được chừa lại đơn lẻ trong khi linh dương ăn lá mềm, chồi non và hạt bên trong. Những loại hạt là thành phần quan trọng trong chế độ ăn uống của Linh dương sừng xoắn châu Phi, là nguồn cung protein chính.
Thai kỳ kéo dài khoảng từ 257 đến 270 ngày (khoảng 9 tháng). Linh dương cái có thể nằm hoặc đứng khi sinh sản, sau đó một con non được sinh ra. Một lần động dục hậu sản xảy ra sau hai hoặc ba ngày. Con non nặng khoảng khi sinh và cai sữa khi được từ 23 đến 29 tuần tuổi.
Môi trường sống và phân bố
Linh dương sừng xoắn châu Phi sống ở vùng miền khô hạn, bán hoang mạc và hoang mạc cát hoặc đá. Gần đây hơn, tìm được Linh dương sừng xoắn châu Phi từ Algérie đến Sudan, nhưng chủ yếu bị săn bắn quá mức, chúng trở nên hạn chế và quý hiếm nhiều hơn. Hơn nữa, thịt và da Linh dương sừng xoắn châu Phi có giá cao. Những mối đe dọa khác bao gồm nạn hạn hán thường xuyên ở hoang mạc, mất môi trường sống do con người lấy đất định cư và canh tác nông nghiệp. Ít hơn 500 cá thể được cho còn tồn tại trong tự nhiên ngày nay, hầu hết linh dương tìm được ở giữa ba khu vực là khối núi Termit thuộc Niger, vùng Bodélé thuộc phía tây Tchad,
Ngày nay có hơn 600 cá thể Linh dương sừng xoắn châu Phi ở châu Âu, khu bảo tồn thiên nhiên Yotvata Hai-Bar (Israel), Sabratha (Libya), vườn thú Giza (Ai Cập), Bắc Mỹ, Nhật Bản và Australia dưới chương trình nhân giống nuôi nhốt. Có hơn 1.000 cá thể trong các khu chăn nuôi tư nhân và trại nuôi ở Hoa Kỳ, Trung Đông. Linh dương sừng xoắn châu Phi được pháp luật bảo vệ ở Morocco, Tunisia và Algeria; săn bắn tất cả các loài linh dương bị cấm ở Libya và Ai Cập. Mặc dù khu bảo tồn to lớn, chẳng hạn như dãy núi Hoggar và Tasilli tại Algérie, Ténéré ở Niger, khu bảo tồn hệ động vật Ouadi Rimé-Ouadi Achim tại Tchad và công viên quốc gia Wadi Howar mới thành lập ở Sudan, bao phủ những khu vực trước đây Linh dương sừng xoắn châu Phi từng sống, nhưng một vài nơi không giữ Linh dương sừng xoắn châu Phi nữa do nguồn lực ngày càng ít. Linh dương sừng xoắn châu Phi được tái nhập tại những công viên quốc gia như Bou Hedma (Tunisia) và Souss-Massa (Morocco). Tái nhập loài vào tự nhiên diễn ra tại công viên quốc gia Jebil (Tunisia), Grand Erg Oriental (Sahara) và một vài nơi khác được quy hoạch ở Morocco.
1. 2 cò súng cho 2 nòng riêng biệt ([[Coach Gun)
2. Nạp đạn bằng đòn bẩy (Winchester M1887)
3. Nạp đạn kiểu bơm