✨Voi

Voi

Voi là động vật có vú thuộc họ Elephantidae và là động vật trên cạn lớn nhất hiện nay. Ba loài hiện được công nhận: Voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và voi châu Á. Elephantidae là nhánh duy nhất còn sót lại của bộ Proboscidea; thành viên tuyệt chủng bao gồm voi răng mấu. Elephantidae cũng bao gồm một số nhóm hiện đã tuyệt chủng, bao gồm cả voi ma mút và voi ngà thẳng. Voi châu Phi có tai lớn và lưng lõm còn voi châu Á có tai nhỏ và lưng lồi hoặc ngang. Đặc điểm nổi bật của tất cả các loài voi bao gồm cái vòi dài, cặp ngà lớn, vạt tai lớn, bốn chân to và làn da dày nhưng nhạy cảm. Vòi voi được sử dụng để thở, đưa thức ăn nước uống vào miệng và cầm nắm đồ vật. Đôi ngà, tiến hóa từ răng cửa, được voi dùng để tự vệ, di chuyển chướng ngại vật và đào hố. Đôi tai lớn giúp voi duy trì thân nhiệt ổn định và giao tiếp. Chân chúng to như cây cột để đỡ tải trọng lớn.

Voi phân bố rải rác khắp châu Phi cận Sahara, Nam Á, Đông Nam Á và thích ứng với nhiều môi trường sống khác nhau như thảo nguyên, rừng, sa mạc và đầm lầy. Chúng là động vật ăn cỏ, tụ tập gần nguồn nước. Voi được coi là loài chủ chốt do chúng có tác động đáng kể lên môi trường cảnh quan xung quanh chúng. Những động vật khác thường giữ khoảng cách với voi; ngoại lệ là những kẻ săn mồi như sư tử, hổ, linh cẩu và chó hoang, thường chỉ rình những con voi non. Voi thường tổ chức thành các xã hội phân hạch-hợp hạch, trong đó nhiều nhóm gia đình liên kết với nhau để giao tiếp. Con cái thường sống trong các nhóm gia đình, bao gồm một con cái với các con non của nó hoặc một số con cái có quan hệ họ hàng. Các nhóm này không có con đực, chúng được dẫn dắt bởi con cái già nhất theo hình thức mẫu hệ.

Những con đực bị đuổi khỏi nhóm gia đình khi đến kì động dục và phải sống đơn lẻ hoặc kết bè với những con đực khác. Voi đực trưởng thành chủ yếu tương tác với các nhóm gia đình khi tìm kiếm bạn đời. Voi đực sẽ trải qua giai đoạn gia tăng testosterone và cực kỳ hung bạo được gọi là kì musth, thể hiện các hành vi tỏ sự thống trị và sự thành đạt về mặt sinh sản. Con non là trung tâm của sự chú ý trong các nhóm gia đình và phải phụ thuộc vào mẹ của chúng trong 3 năm. Voi có tuổi thọ trung bình là 70 tuổi trong tự nhiên. Chúng giao tiếp bằng xúc giác, thị giác, khứu giác và thính giác; voi sử dụng sóng hạ âm và giao tiếp địa chấn để viễn thông. Trí thông minh của voi được so sánh với các loài linh trưởng và bộ cá Voi. Chúng dường như có sự tự nhận thức và thể hiện sự đồng cảm với những thành viên đang hấp hối hoặc đã chết.

Voi châu Phi thuộc diện sắp nguy cấp và voi châu Á thuộc diện bị đe dọa theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Những mối đe dọa lớn nhất đối với các quần thể voi hiện nay là nạn săn trộm buôn bán ngà voi, môi trường sống triệt thoái và xung đột với dân địa phương. Voi được sử dụng làm súc vật thồ ở châu Á. Trong quá khứ, chúng cũng được sử dụng trong chiến tranh; ngày nay, chúng thường được trưng bày trong các sở thú hoặc được huấn luyện để giải trí trong các rạp xiếc. Voi là một biểu tượng rất nổi tiếng và đặc trưng trong nghệ thuật, văn hóa dân gian, tôn giáo và văn học của loài người.

Từ nguyên

"Voi" trong tiếng Việt bắt nguồn từ 㺔 (voi) trong giai đoạn tiếng Việt trung đại, xa hơn nữa thì nó bắt nguồn từ *-vɔːj (ký âm theo IPA) của tiếng Việt-Chứt nguyên thủy. "Vòi" cũng là một từ phái sinh từ gốc này.

"Elephant" trong tiếng Anh gốc từ elephas trong tiếng Latinh (cách sở hữu là elephantis), dạng Latinh hóa của tiếng Hy Lạp ἐλέφας (elephas) (cách sở hữu là ἐλέφαντος (elephantos)), có lẽ không thuần gốc Ấn-Âu mà vay mượn từ tiếng Phoenicia. Trong tiếng Hy Lạp Mycenaea, voi đọc là e-re-pa (cách sở hữu là e-re-pa-to) theo bảng chữ cái Linear B. Nhà thơ Homeros sử dụng từ này với nghĩa là ngà voi, giống trong tiếng Hy Lạp Mycenaea, nhưng kể từ thời sử gia Herodotus, nó cũng được dùng để chỉ cả con vật. Voi và bộ Bò biển được nhóm lại thành nhánh Tethytheria.

Ba loài voi hiện được công nhận; voi đồng cỏ châu Phi (Loxodonta africana), voi rừng (Loxodonta cyclotis) của châu Phi cận Sahara và voi châu Á (Elephas maximus) của Nam-Đông Nam Á. Voi châu Phi có đôi tai lớn, lưng lõm, da nhăn, bụng dốc và sở hữu hai phần mở rộng giống như ngón tay ở đầu vòi. Voi châu Á có đôi tai nhỏ, lưng lồi hoặc ngang, da mịn hơn, bụng ngang thỉnh thoảng bị phệ xuống ở giữa và một phần mở rộng ở đầu vòi. Các đường gờ tại răng hàm hẹp hơn ở voi châu Á trong khi voi châu Phi có hình kim cương. Voi châu Á cũng có những bướu lồi trên lưng và một số vết phi sắc tố hóa trên da.

Trong số các loài voi châu Phi, voi rừng có đôi tai nhỏ, tròn hơn và ngà mỏng, thẳng hơn so với voi đồng cỏ; chúng chỉ phân bố trong phạm vi các khu vực có rừng ở phía tây và Trung Phi. Năm 2017, phân tích trình tự ADN chứng tỏ L. cyclotis có quan hệ gần gũi hơn với loài Palaeoloxodon antiquus đã tuyệt chủng so với L. africana. Phát hiện này có thể sẽ làm sụp đổ toàn bộ chi Loxodonta.

Sự tiến hóa và các họ hàng đã tuyệt chủng

Hơn 180 thành viên đã tuyệt chủng và ba phát xạ tiến hóa lớn của bộ Proboscidea đã được các nhà khoa học xác định. Các proboscid sớm nhất, ví dụ chi EritheriumPhosphatherium thế Paleocene muộn, đánh dấu sự kiện phát xạ đầu tiên. Thế Eocene xuất hiện các chi Numidotherium, MoeritheriumBarytherium từ Châu Phi. Những con vật này tương đối nhỏ và sống dưới nước. Các chi như PhiomiaPalaeomastodon phát sinh sau này, sinh sống ở các khu rừng gỗ và rừng mở. Sự đa dạng của các proboscidean bị sụt giảm trong thế Oligocene. Một loài đáng chú ý của giai đoạn này là Eritreum melakeghebrekristosi từ vùng Sừng châu Phi, có lẽ là tổ tiên của nhiều loài sau này. Đợt đa dạng hóa thứ hai diễn ra vào đầu thế Miocene, với sự xuất hiện của các deinothere và mammutid.

Phát xạ tiến hóa thứ hai trong thế Miocene phái sinh các gomphothere, Loài Primelephas gomphotheroides của Châu Phi phái sinh các chi Loxodonta, MammuthusElephas. Chi Loxodonta bắt đầu phân nhánh quanh ranh giới thế Miocene và Pliocene, còn hai chi MammuthusElephas rẽ nhánh muộn hơn trong thế Pliocene sớm. Loxodonta ở lại Châu Phi còn MammuthusElephas di cư sang đại lục Á-Âu, tới được tận Bắc Mỹ. Đồng thời, các stegodontid (một nhóm proboscidean khác có nguồn gốc từ gomphothere) lan rộng khắp châu Á, tới được Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á và Nhật Bản. Các Mammutid tiếp tục tiến hóa thành các loài mới, chẳng hạn như voi răng mấu của Mỹ.

Khi thế Canh Tân bắt đầu, elephantid có tỷ lệ phân loài rất cao. Loxodonta atlantica đã trở thành loài phổ biến nhất ở miền bắc và miền nam châu Phi nhưng bị thay thế bởi loài Elephas iolensis sau này. Chỉ khi Elephas tuyệt chủng địa phương ở Châu Phi, Loxodonta mới trở nên thống trị một lần nữa, lần này dưới dạng các loài voi hiện còn sống. Voi đa dạng thành các loài mới ở châu Á, chẳng hạn như E. hysudricusE. platycephus; Mammuthus tiến hóa thành một số loài, bao gồm voi ma mút lông xoắn nổi tiếng. Sự giao phối liên loài dường như khá phổ biến giữa các loài voi, trong một số trường hợp dẫn đến các loài có ba thành phần di truyền tổ tiên, chẳng hạn như Palaeoloxodon antiquus. Vào cuối thế Canh Tân, hầu hết các loài proboscidean đã tuyệt chủng trong cuộc băng hà Đệ tứ giết chết 50% các chi có trọng lượng trên 5 kg (11 lb) toàn cầu.

Probscidean tiến hóa với xu hướng tăng kích thước, dẫn đến việc loài trong nhóm này cao tới 5 m. Chi vận động của chúng dài ra, bàn chân thì dẹt lại nhưng rộng hơn. Các proboscid nguyên thủy phát triển hàm dưới dài hơn và mái sọ nhỏ hơn trong khi các loài tiến tiến hơn phát triển hàm dưới ngắn hơn, làm dịch chuyển trọng tâm của đầu. Hộp sọ ngày càng lớn trong khi cổ rút ngắn để nâng đỡ hộp sọ. Sự gia tăng kích thước dẫn đến sự phát triển và kéo dài của cái vòi di động cung cấp tầm với, đóng vai trò la tay của voi. Số lượng răng hàm, răng cửa và răng nanh giảm xuống. Đôi răng cửa thứ hai phía trên mọc thành ngà, có hình dạng khác nhau từ thẳng, cong (lên hoặc xuống), xoắn ốc, tùy thuộc vào từng loài. Một số proboscidean còn mọc ngà từ răng cửa dưới. Voi vẫn lưu giữ một số đặc điểm từ tổ tiên của chúng, như cấu tạo giải phẫu tai giữa chẳng hạn.

Đầu

Hộp sọ của voi có đủ sức đàn hồi để chịu được ứng suất của cặp ngà và hứng chịu các va chạm trực diện. Lưng của hộp sọ rất phẳng và trải rộng ra, tạo ra mái vòm bảo vệ não theo mọi hướng. Hộp sọ voi có các xoang tổ ong chứa khí, giảm trọng lượng hộp sọ nhưng vẫn duy trì được sức mạnh tổng thể. Hộp sọ voi rất lớn, cung cấp diện tích để các cơ bắp bám vào và hỗ trợ đầu. Hàm dưới của voi rắn rỏi và rất nặng. Do kích thước của đầu, cổ của voi tương đối ngắn để hỗ trợ trọng lượng tốt hơn. Voi là loài lưỡng sắc chúng có thể nhìn rõ trong ánh sáng mờ nhưng không nhìn rõ trong ánh sáng chói. Voi có khả năng nghe âm thanh tần số thấp và nhạy nhất đối với tần số 1 kHz (gần với giọng Soprano C).

Vòi

Vòi voi là sự kết hợp của mũi và môi trên, tuy khi voi còn là bào thai thì phần môi trên và vòi tách rời nhau. Vòi được gọi là một cơ bắp hydrostat (giống như lưỡi), cử động thông qua sự phối hợp các chuyển động co cơ. Một dây thần kinh rất độc đáo, hình thành từ các dây thần kinh ở hàm trên và mặt, chạy dọc ở hai bên vòi. và có khả năng nâng vật trên 350 kg. Voi có khả năng làm giãn lỗ mũi thêm 30%, tăng thể tích mũi lên 64% và có thể hít vào với tốc độ hơn 150 m/s, tức là khoảng 30 lần tốc độ hắt hơi của con người. Voi có thể hút thức ăn và nước uống hoặc phun nước lên cơ thể của chúng.

Răng

Voi thường có 26 chiếc răng: răng cửa hay còn gọi là ngà, 12 răng sữa tiền hàm và 12 răng hàm. Không giống như hầu hết các loài động vật có vú, mọc răng sữa và thay thế chúng bằng một bộ răng trưởng thành vĩnh viễn duy nhất, voi là động vật đa bộ răng và luôn thay răng trong suốt quãng đời của chúng. Răng nhai được thay 6 lần trong một đời voi điển hình. Răng không được thay thế bằng những chiếc mới mọc ra khỏi hàm theo chiều dọc như ở hầu hết các loài động vật có vú. Thay vào đó, răng mới mọc ở phía sau miệng và di chuyển về phía trước mà đẩy răng cũ ra ngoài. Chiếc răng nhai đầu tiên của mỗi bên hàm rụng đi khi voi được 2 đến 3 tuổi. Bộ răng nhai thứ hai rụng khi 4 đến 6 tuổi. Bộ thứ ba rơi vào khoảng 9–15 tuổi và bộ thứ bốn rơi vào khoảng 18–28 tuổi. Bộ răng thứ năm rụng vào đầu năm 40 tuổi. Bộ thứ sáu (thường là cuối cùng) gắn với voi suốt phần đời còn lại. Răng voi có các gờ răng hình vòng cung, chúng dày hơn và có hình thoi ở voi châu Phi.

Tập tính

Hằng ngày, voi dành khoảng 16 tiếng đồng hồ để tìm kiếm thức ăn và chỉ ngủ khoảng từ 3 đến 5 tiếng. Voi trưởng thành ngủ đứng. Voi con đôi khi ngủ nằm. Voi tuy to lớn, nhưng điều đó không ngăn cản chúng trở thành những tay bơi giỏi. Chúng rất thích bơi và thậm chí có thể bơi ở biển. Thời gian ưa thích trong ngày của chúng là khi tắm bùn. Bùn bảo vệ voi khỏi bị ánh nắng thiêu đốt và giữ cho voi được mát mẻ, tránh được những con bọ khó chịu.

Ăn uống

Kích thước của một con voi có ý nghĩa là khi nó phát triển hoàn toàn thì ngoài con người ra, nó an toàn trước tất cả các loài thú ăn thịt. Và để nuôi sống cơ thể vĩ đại của mình, nó phải cần rất nhiều thức ăn. Mỗi con voi trưởng thành ăn khoảng 150 kg (300 lb) cỏ, cành nhỏ, lá cây, trái cây,... mỗi ngày. Những thức ăn như vậy cần được nhai kĩ càng. Voi có những răng nghiền phía sau ở cửa miệng, đây là vị trí mà các răng có lực mạnh nhất, nhưng nó cũng bị mòn đi. Khi đó răng mới sẽ được mọc lên ở phía dưới rồi đẩy răng cũ ra ngoài. Do đó, voi mọc răng trong suốt cuộc đời, tổng cộng có 6 bộ răng nghiền, nhưng khi bộ răng cuối cùng bị mòn thì khi đó voi đã sống đến 55 tuổi. Nó trở nên yếu đi vì thiếu thức ăn và sẽ chết vì đói nhiều hơn là về bệnh tật. nhỏ|phải|Một con voi đang ăn cỏ khô, mỗi ngày voi ăn và uống một lượng khổng lồ Voi dùng vòi để quặp thức ăn và đưa vào miệng. Thức ăn chủ yếu của chúng là cỏ và các loại cây khác trên mặt đất. Voi dùng vòi để kéo lá cây, thân cây và cành cây từ trên cao xuống. Khi thức ăn khan hiếm, voi dùng ngà để húc đổ cây. Khi khát, voi tập trung bên bờ sông hoặc các vũng nước, thậm chí dùng vòi để đào sâu xuống để hút nước. Voi uống nước bằng cách hút nước vào vòi rồi phun vào trong miệng. Mỗi ngày voi tiêu thụ 160-300 lít nước. Voi cũng phun nước lên lưng để làm mát da.

Mỗi ngày voi con trưởng thành thải ra một lượng chất thải nặng hơn trọng lượng của một cậu bé. Phân voi chứa những hạt cây mà voi đã nuốt sẽ mọc lên thành cây mới thay thế cho những cây mà chúng đã ăn hoặc húc đổ. Hiện nay ở một số nước đang nuôi voi, nghiên cứu và đi vào thử nghiệm chế biến phân voi thành giấy (vì phân voi được xem là khá sạch, không nặng mùi do chúng chỉ ăn thực vật và uống nước).

Lãnh thổ

Thực ra, voi không bảo vệ lãnh thổ riêng của nó, thay vào đó, nó thích hòa nhập vào đàn sống bên cạnh, trong đó con voi đầu đàn là con voi cái già nhất sẽ giữ vai trò làm chủ. Nó dẫn cả đàn tìm đến những nơi có nước và thức ăn. Theo sau con voi này là những chú voi con và những con voi cái trưởng thành. Voi sống chung một đàn qua nhiều năm. Các thành viên trong đàn luôn sống cạnh nhau, chăm sóc cho nhau, thậm chí sẵn sàng cho bất kỳ chú voi con nào bú nếu cần thiết. Đôi khi đàn bị tách ra, một số con voi trẻ hơn rời đàn cùng những con voi khác. Nhưng đàn nhỏ này vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với gia đình gốc của chúng và có thể quay lại trong một thời gian rất ngắn.

Voi đực non (khoảng 12 tuổi) sống đơn độc hoặc sống cùng các voi đực khác. Số thành viên trong đàn chúng lập ra rất hay thay đổi. Khi các gia đình voi tập hợp lại sẽ trở thành bầy voi gồm hàng trăm thành viên. Voi giao tiếp bằng xúc giác, khứu giác, hoặc dùng vòi, tai ra hiệu. Tiếng ré của voi vang rất xa, voi ré lên để gọi nhau tập hợp thành bầy.

Sinh sản

Tập tính sinh sản của voi cũng rất đặc biệt. Voi không có mùa giao phối riêng, nhưng nếu một con cái giao phối thì chúng sẵn sàng gia nhập đàn mặc dù chúng có thể có mặt không thường xuyên cho lắm. Chu kỳ mang thai của voi là 22 tháng, dài nhất trong số các động vật sống trên mặt đất. Voi con mới sinh cân nặng khoảng 120 kg (265 pao). Vừa mới sinh voi con trông rất lem luốc nên chúng được voi mẹ lau sạch trước khi chúng đứng lên được. Chúng thường sinh vào mùa xuân. Sau khi voi con ra đời, chúng được những voi khác ở bên để bảo vệ cho tới khi nó đủ cứng cáp để có thể đi được. Cũng như các loài thú có tuổi thọ dài khác, voi dành rất nhiều năm để chăm sóc con. Voi trưởng thành quá to lớn nên không có mấy kẻ thù, nhưng voi con có nguy cơ bị tấn công. Voi con bú sữa mẹ trong vòng năm năm và voi đực rời đàn khi đủ mười ba tuổi. Voi lớn lên rất chậm và chúng có thể sống được 60 năm hoặc thậm chí 80 năm.

Chi và loài

nhỏ|So sánh giữa voi châu Á (hình 1) và voi châu Phi (hình 2) nhỏ|phải|Hình ảnh ngà của con voi ở Khu bảo tồn Ngorongoro, [[Tanzania]] nhỏ|Ngà voi được dùng để trang trí [[nội thất]]

  • Elephas Elephas antiquus Elephas beyeri Elephas celebensis Elephas ekorensis Elephas falconeri Elephas maximus: Voi châu Á hay còn gọi là voi Ấn Độ (xem thêm: Voi Việt Nam) Elephas planifrons Elephas platycephalus † ** E. recki
  • Loxodonta: Voi châu Phi Loxodonta adaurora: † Loxodonta africana: Voi đồng cỏ châu Phi trong đó có voi sa mạc ** Loxodonta cyclotis: Voi rừng châu Phi
  • Mammuthus †: Voi ma mút Mammuthus columbi: Voi ma mút Columbia Mammuthus exilis: Voi ma mút lùn Mammuthus jeffersonii: Voi ma mút Jefferson Mammuthus lamarmorae: Voi ma mút lùn Sardinia Mammuthus meridionalis: Mammuthus primigenius: Voi ma mút lông xoăn ** Mammuthus trogontheri: Voi ma mút thảo nguyên
  • Stegodon: † Stegodon elephantoides: Myanmar, Java Stegodon sompoensis: Sulawesi, Indonesia Stegodon aurorae: Nhật Bản Stegodon ganesha: Ấn Độ, Pakistan Stegodon insignis: Pakistan Stegodon zdanski: Trung Quốc Stegodon orientalis: Trung Quốc, Nhật Bản Stegodon shinshuensis: Nhật Bản Stegodon trigonocephalus: Java, Indonesia Stegodon sondaari: Flores, Indonesia ** Stegodon florensis: Flores, Indonesia

Trong đời sống

nhỏ|phải|Một con voi đã được thuần dưỡng Voi đã thuần hóa là con vật nuôi có ích và rất thân thiện với con người. Từ hàng nghìn năm nay, những chú voi đã được thuần dưỡng để làm những công việc như kéo gỗ, kéo cày, kéo cây và để biểu diễn trong các lễ hội. Voi là động vật thông minh nên có thể học và ghi nhớ rất nhanh các kỹ năng đơn giản. Người dân vùng Đông Á thường dùng voi để kéo các cây gỗ lớn mà xe ủi hoặc xe kéo không làm được. Người châu Á cũng dùng voi để làm loài vật chiến đấu như voi chiến hay voi trận như Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Campuchia... Ở Việt Nam có Bản Đôn - Đắk Lắk là một nơi có truyền thống săn bắt và thuần dưỡng voi rừng. Voi ở đây còn được sử dụng như một sản phẩm du lịch ăn khách. Ở đây còn có huyền thoại về vua voi và nhiều di tích, kỉ vật về ông còn được lưu giữ.

Trong văn hóa Việt Nam, voi được nhiều lần nhắc đến qua những câu chuyện, câu thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ:

  • Mười voi không bằng bát nước xáo: Chỉ những người huênh hoang khoác lác nhưng chẳng có thực chất
  • Tránh voi chẳng xấu mặt nào: Chỉ cách ứng phó, đối nhân xử thế, không chấp nhất
  • Thầy bói xem voi: Câu chuyện dân gian
  • Được voi đòi tiên: Chỉ sự tham lam, đòi hỏi quá đáng
  • Voi giày ngựa xé: Liên tưởng đến một hình phạt tàn khốc
  • Đầu voi đuôi chuột: Chỉ về sự việc làm không đến nơi, đến chốn, mang tính khoa trương Hình:Srepok Ban Don.JPG|Voi đưa du khách sang sông Serepôk Hình:Bandon04.JPG|Mộ vua voi ở Bản Đôn Hình:Đàn goong and the bronze tray of the king of Ban Don.jpg|Chiếc mâm đồng kỉ vật của Vua Voi Bản Đôn Hình:yokdon02.JPG|Voi và Kiểm lâm ở vườn quốc gia Ýok Đôn
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đã xảy ra nhiều trường hợp xác **cá voi phát nổ** do tích tụ khí trong quá trình phân hủy. Thuốc nổ trong thực tế cũng đã được sử dụng để hỗ trợ xử lý
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
**Voi châu Á** (danh pháp hai phần: **_Elephas maximus_**) trước đây được gọi là **voi Ấn Độ** là loài voi phân bố ở vùng châu Á. Đây là loài động vật có vú có kích
**Chi Voi ma mút** hay **chi Voi lông dài** (danh pháp khoa học: **_Mammuthus_**) là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến
phải|Loài [[cá voi lưng gù nổi tiếng với những bài hát của chúng]] **Bài hát của cá voi** (tiếng Anh: _whale song_) là âm thanh mà cá voi tạo ra với mục đích giao tiếp
Tiểu bộ **Cá voi có răng** (danh pháp khoa học: **_Odontoceti_**) là một tiểu bộ thuộc phân thứ bộ Cá voi (_Cetacea_). Tiểu bộ này bao gồm các loài cá nhà táng, cá voi mỏ,
**Phân thứ bộ Cá voi** (danh pháp khoa học: **Cetacea**) (từ tiếng La tinh _cetus,_ cá voi) là một phân thứ bộ động vật có vú guốc chẵn gồm các loài như cá voi, cá
**Cá voi sát thủ**, còn gọi là **cá heo đen lớn** hay **cá hổ kình** (danh pháp hai phần: **_Orcinus orca_**) là một loài cá heo thuộc phân bộ cá voi có răng, họ hàng
**Họ Lợn vòi** (**Tapiridae**) là một họ gồm các loài động vật có vú guốc lẻ gọi là **lợn vòi**. Chúng có kích cỡ lớn, ăn thực vật, hình dáng khá giống loài lợn, với
**Cá voi xám** (danh pháp hai phần: **_Eschrichtius robustus_**), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài
**Voi** là động vật có vú thuộc họ Elephantidae và là động vật trên cạn lớn nhất hiện nay. Ba loài hiện được công nhận: Voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và
**Cá voi Sei** ( hay , danh pháp hai phần: _Balaenoptera borealis_) là một loài cá voi thuộc phân bộ Cá voi tấm sừng hàm. Nó là loại sinh vật thuộc họ Cá voi lưng
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
Khoảng 80-87 loài hiện nay trong bộ Cá voi. [[Phát sinh chủng loài học cho thấy mối quan hệ giữa các gia đình cá voi. ]] Các loài cá voi đã tiến hóa từ các
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
thumb|right|Một con [[cá heo mũi chai đang phóng lên khỏi mặt nước.]] Đây là **danh sách các loài trong phân thứ bộ Cá voi**. Phân thứ bộ Cá voi bao gồm cá voi, cá heo,
**Con voi** là đối tượng của miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau trong văn hóa đại chúng, trong thần thoại và biểu tượng đặc biệt là ở châu Á và châu Phi
nhỏ|phải|Voi ở Thái Lan trong một tua du lịch **Voi Thái** (, _chang Thai_) là linh vật quốc gia của Thái Lan. Loài voi được tìm thấy ở Thái Lan là voi Ấn Độ (_Elephas
**Ủy ban Cá voi Quốc tế** (**IWC**) là một cơ quan quốc tế được thành lập theo các điều khoản của Công ước Quốc tế về Quy định Đánh bắt cá voi (ICRW), được ký
nhỏ|phải|Một con voi nhà ở Tây Nguyên **Voi nhà** hay **voi nuôi nhốt** (_Captive elephant_) hay còn gọi là **voi thuần dưỡng** là những con voi được nuôi giữ trong một khu vực giam giữ
nhỏ|phải|Một con voi đang vẽ tranh **Trí khôn của voi** hay **trí thông minh của voi** hay **trí tuệ của loài voi** (Elephant cognition) là những biểu hiện về nhận thức thông minh của loài
**Voi Borneo** (Danh pháp khoa học: _Elephas maximus borneensis_) hay còn gọi là **Voi lùn Borneo** hay đơn giản là **Voi lùn** là một phân loài của loài voi châu Á sinh sống tại đảo
nhỏ|phải|Với khối lượng thịt thu được lên đến 450 kg/con thì lượng thịt từ một con voi có thể bán được với giá gấp hơn 30 lần giá ngà **Thịt voi** đề cập đến phần
**Thuần dưỡng voi rừng** hay còn gọi là **thuần dưỡng voi** là một phương pháp để thuần phục những con voi rừng hoang dã bằng các biện pháp khác nhau để huấn luyện chúng trở
nhỏ|phải|Voi châu Phi, loài voi bị săn bắn dữ dội để lấy ngà **Săn voi** là hành động săn bắt hoặc giết voi của các cộng đồng người dân châu Phi hay châu Á. Lịch
**_Nữ hoàng voi_** (tên gốc tiếng Anh: **_The Elephant Queen_**) là một bộ phim tài liệu năm 2018 do Victoria Stone và Mark Deeble đạo diễn. Bộ phim là một câu chuyện về tình gia
thế=|nhỏ|350x350px|Thông báo được dán trước cửa một [[thư viện công cộng ở Island Bay, New Zealand rằng nó bị đóng cửa do đại dịch và sẽ miễn tất cả phí trả lại trễ]] Đại dịch
right|thumb|Hình 1: Một vòi phun Laval, hiển thị vận tốc dòng chảy gần đúng, tăng từ màu xanh lá cây sang màu đỏ, theo hướng dòng chảy **Vòi phun động cơ tên lửa** là một
**Đá vôi** là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật calcit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của calci cacbonat CaCO3). Đá vôi ít
**Tiểu bộ Cá voi cổ** (danh pháp khoa học: **_Archaeoceti_**) là một nhóm cận ngành chứa các dạng cá voi cổ đã phát sinh ra các dạng cá voi hiện đại (_Autoceta_). Từng có thời
phải|Các nhân viên đang tắm cho voi trong Công Viên Voi Công viên thuần dưỡng và bảo vệ loài voi này nằm ở tỉnh Chiang Mai - một tỉnh vùng núi Miền Bắc Thái Lan
**Họ Vòi voi** (danh pháp khoa học: **Heliotropiaceae**) là một họ thực vật có hoa trong bộ Boraginales. Theo truyền thống, họ này từng được coi như là phân họ **Heliotropioideae** trong họ Boraginaceae nghĩa
phải|Thủy thủ đoàn tàu nghiên cứu hải dương "Princesse Alice" (Công Chúa Alice) của Albert Grimaldi (cố hoàng thân [[Albert I, hoàng thân Monaco|Albert I của Monaco) chụp một kiểu ảnh trong lúc chặt khúc
**Họ Chìa vôi** (danh pháp khoa học: **_Motacillidae_**) là một họ chứa các loài chim nhỏ trong bộ Sẻ với đuôi từ trung bình tới dài. Chúng bao gồm chìa vôi, chim manh và chim
**Lợn vòi** tên đầy đủ là **Lợn vòi Mã Lai** (danh pháp hai phần: _Tapirus indicus_) là loài thú có hình dáng giống lợn rừng, nhưng cỡ lớn hơn và chúng có cái mõm dài
phải|nhỏ|344x344px|[[Louis Rousselet mô tả hình phạt voi giày trong tác phẩm "Le Tour du Monde" năm 1868]] **Voi giày** là một hình phạt có từ hàng ngàn năm ở các quốc gia Nam Á và
**Chi Bình vôi** hay **chi Thiên kim đằng** (danh pháp khoa học: **_Stephania_**) là một chi thực vật có hoa trong họ Biển bức cát (Menispermaceae), có nguồn gốc ở miền đông và nam châu
**Họ Cá chìa vôi ma** (còn gọi là **cá chìa vôi giả** hay **cá dao cạo**) là một họ nhỏ có danh pháp khoa học là **_Solenostomidae_**, thuộc về bộ Cá chìa vôi (Syngnathiformes). Họ
:_Bài viết về một chi thực vật cũng có danh pháp khoa học như thế này, xem bài Proboscidea (chi)_. **Bộ Có vòi** còn gọi là **bộ Voi** hay **bộ Mũi dài** (**Proboscidea**) là một
**Bộ Cá chìa vôi** (danh pháp khoa học: **_Syngnathiformes_**) là một bộ cá vây tia bao gồm các loài cá chìa vôi và cá ngựa.. Một số tài liệu về động vật học của Việt
**Voi ma mút lông xoăn**, còn gọi là **voi ma mút lãnh nguyên** (danh pháp khoa học: _Mammuthus primigenius_) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Voi ma mút lông xoăn là một
**Voi ma mút Columbia** (danh pháp hai phần: **_Mammuthus columbi_**) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng, từng sinh sống trong khu vực Bắc Mỹ vào khoảng 100.000 - 9.000 năm trước. Nó
**Vòi voi** còn gọi là **cẩu vĩ trùng**, **đại vĩ đạo**, tên khoa học là **_Heliotropium indicum_**, thuộc họ Vòi voi (Boraginaceae). Tên cây đặt theo hình dạng dò hoa mọc ngồng lên như vòi
**Cá voi** là tên gọi chung cho nhiều loài động vật dưới nước trong phân thứ bộ Cá voi (Cetacea). Thuật ngữ _cá voi_ đôi khi ám chỉ mọi loài trong bộ Cá voi, nhưng
[[Thịt cá voi bày bán tại siêu thị cá Tsukiji tại Tokyo, Nhật Bản]] Việc **săn bắt cá voi ở Nhật Bản** được Hiệp hội Săn bắt cá voi Nhật Bản (JWA) ước tính là
phải|nhỏ|Điểm lộ đá sét vôi của [[hệ tầng Matmor (tuổi Jura) miền nam Israel.]] **Đá sét vôi**, **đá bùn vôi**, **đá phấn hồ** hay **đá mac-nơ** (phiên âm từ tiếng Anh _marl/marlstone_) là một loại
**Cá voi đầu bò lùn** (danh pháp hai phần: _Caperea marginata_) là một loài cá voi tấm sừng hàm, thành viên duy nhất của họ Neobalaenidae. Đầu tiên mô tả bởi John Edward Gray vào
**Chi Cá voi hoa tiêu** (danh pháp khoa học: **_Globicephala_**) là một chi thuộc Họ Cá heo đại dương. Chi này có hai loài đang tồn tại. Hai loài này là không dễ dàng phân