✨Cá voi sát thủ

Cá voi sát thủ

Cá voi sát thủ, còn gọi là cá heo đen lớn hay cá hổ kình (danh pháp hai phần: Orcinus orca) là một loài cá heo thuộc phân bộ cá voi có răng, họ hàng là cá heo đại dương. Đây là phân loài cá heo lớn nhất trong họ. Cá voi sát thủ sống tại tất cả các đại dương trên thế giới, từ Bắc Băng Dương và vùng châu Nam Cực cho đến các vùng biển nhiệt đới ấm áp.

Cá voi sát thủ linh hoạt, nhanh nhẹn và là một loài động vật ăn thịt thông minh. Một số ăn cá, một số săn các loài thú biển như sư tử biển, hải cẩu, cá voi và cả loài cá mập trắng lớn cũng là nạn nhân của nó. Nó là loài săn mồi đỉnh cao ở đại dương và không có kẻ thù tự nhiên xứng tầm nào ngoài con người. Có thể có đến 5 loại cá heo voi khác nhau, một số có thể tách thành các giống, phụ thậm chí là tách thành loài riêng biệt. Cá voi sát thủ là loài có tổ chức xã hội cao, một số theo chế độ mẫu hệ, bền vững hơn bất kì loài thú nào khác, tất nhiên là trừ loài người. Cách cư xử xã hội phức tạp, kỹ thuật săn mồi, âm thanh giao tiếp của cá heo voi được coi là một nét văn hóa của chúng.

Tuy cá voi sát thủ không phải loài nguy cấp, một số quần thể cục bộ được coi là bị đe dọa hoặc ở tình trạng nguy cấp do ô nhiễm, sự suy giảm của con mồi, xung đột với các hoạt động đánh cá và tàu bè, mất môi trường sống,... Cá voi sát thủ hoang dã thường không được xem là mối đe dọa đối với con người. Tuy nhiên, có một số ghi nhận cá biệt về cá heo voi trong môi trường nuôi nhốt tấn công người điều khiển tại các thủy cung.

Tên gọi

Orca thường được gọi là "cá voi sát thủ" (killer whale) vì các thủy thủ thời xưa từng chứng kiến chúng săn các loài cá voi lớn hơn chúng. Kể từ những năm 1960, thuật ngữ “orca” ngày càng được sử dụng phổ biến thay cho “killer whale”.

Mặc dù một số nguồn cho rằng Orcinus có nghĩa là “thuộc về cõi chết”, Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN) cho biết tên gọi "orca" bắt nguồn từ tiếng Latinh orca, có nghĩa là “cái chum to phùng phình”. Tên Orcinus là dạng thêm hậu tố giống đực vào từ đó. Người La Mã cổ đại đã dùng từ orca (số nhiều: orcae) để gọi những loài này, và có thể họ đã mượn từ tiếng Hy Lạp cổ đại ὄρυξ (óryx), dùng cho nhiều loài cá voi, có cả kỳ lân biển (narwhal).

Chúng đôi khi cũng được gọi là “cá đen” (blackfish), một thuật ngữ dùng chung cho một số loài thuộc bộ cá voi. Trong lịch sử, “grampus” cũng từng là một tên gọi khác của loài này, tuy nhiên hiện nay hiếm khi còn được sử dụng. Cần lưu ý rằng cách dùng này không nên nhầm lẫn với chi Grampus, vốn chỉ bao gồm cá heo Risso (Grampus griseus).

Phân loại và tiến hoá

thumb|left|Bộ xương cá voi sát thủ tiền sử Cá voi sát thủ được ghi nhận là loài duy nhất còn tồn tại của chi Orcinus. Một trong những loài đầu tiên được miêu tả bởi Carl Linnaeus trong cuốn Systema Naturae. Conrad Gessner đã viết những mô tả khoa học đầu tiên về loài cá heo voi trong cuốn "Fish Book" năm 1558, dựa trên nghiên cứu từ xác của những con cá voi bị mắc cạn tại vịnh Greifswald.

Cá voi sát thủ là một trong 35 loài trong Họ Cá heo đại dương, những loài mà đã khởi phát từ khoảng 11 triệu năm trước. Nòi giống cá heo voi có lẽ phân nhánh sớm ngay sau đó. Mặc dù nó có điểm tương đồng về hình thái học với Cá hổ kình lùn (Feresa attenuata), Cá ông chuông (Pseudorca crassidens), Chi Cá voi hoa tiêu (Globicephala), nhưng nghiên cứu về trình tự gien Cytochrome b thực hiện bởi Richard LeDuc chỉ ra rằng họ hàng gần gũi nhất còn tồn tại là loài cá heo thuộc chi Orcaella.

Các loại

Ba đến năm loại cá voi sát thủ có lẽ đủ khác biệt để có thể phân chia chúng thành các giống, phân loài hay thậm chí là loài riêng biệt. Báo cáo năm 2008 của IUCN: "Nguyên tắc phân loại của chi này cần được phải xem xét lại, có khả năng là O. orca sẽ bị chia thành các loài khác nhau hay ít nhất là phân loài trong vài năm tới". Mặc dù những khác biệt lớn trong đặc điểm sinh thái học của các nhóm cá heo voi khác nhau là phức tạp nhưng chúng chỉ được đơn giản chia thành các loại khác nhau. Trong thập niên 1970 và 1980, nghiên cứu bờ biển phía tây Canada và Hoa Kỳ đã chỉ ra ba loại cá heo voi sau đây:

  • Loại định cư: Đây là loại thường thấy nhất trong ba loại tại những vùng bờ biển Đông bắc Thái bình dương bao gồm cả Puget Sound. Thực đơn chủ yếu của chúng là cá, đôi khi là mực. Chúng sống trong các nhóm gia đình có liên kết chặt chẽ và phức tạp. Đặc trưng của những con cái là tại đỉnh góc nhọn của vây lưng được bo tròn. Chúng chỉ đến thường xuyên ở những khu vực nhất định. Tại bang British Columbia và tiểu bang Washington là nơi nghiên cứu nhiều về loài động vật biển có vú. Trong hơn 30 năm, các nhà nghiên cứu đã xác định và đặt tên cho hơn 300 con cá heo voi.
  • Loại di cư: Loại cá voi sát thủ này hầu như chỉ ăn các loài thú biển, di chuyển theo từng nhóm từ 2 đến 6 cá thể, mối quan hệ gia đình cũng kém bền hơn "Loại định cư". Âm phát ra của loại này ít biến thiên và kém phức tạp. Đặc trưng của những con cái là vây lưng vát tam giác hơn và mũi vây lưng nhọn hơn so với "loại định cư"
  • Loại xa bờ: Loại này được phát hiện năm 1988 ở vùng Đông Bắc Thái Bình Dương, khi một nhà khoa học nghiên cứu cá voi lưng gù đã quan sát thấy chúng ở vùng nước mở. Chúng sống ở ngoài khơi xa, thức ăn chủ yếu là các loài cá sống theo đàn, cá mập và rùa biển. Chúng thường bị bắt gặp ở vùng bờ biển phía Tây Đảo Vancouver, gần đảo Haida Gwaii. Loại này thường tập trung thành những nhóm khoảng 20-75 cá thể, có những nhóm lớn lên tới khoảng 200 cá thể. Những hiểu biết về loại này hiện nay là rất hạn chế. Về mặt di truyền học, chúng khác biệt so với loại di cư và loại định cư. Kích cỡ của loại này nhỏ hơn, đặc trưng con cái của loại này là có đỉnh vây lưng tròn hơn loại định cư và loại di cư. Cái tên di cư xuất phát từ niềm tin cho rằng chúng là những cá thể tự tách ra khỏi những đàn định cư lớn. Nhưng những nghiên cứu sau này chỉ ra rằng loại di cư không sinh ra từ những đàn định cư và ngược lại. Sự tiến hóa của hai loại này được cho rằng bắt đầu cách đây 2 triệu năm trước. Phân tích gen hiện tại cũng cho thấy chúng ít ra cũng không có quan hệ giao phối lẫn nhau khoảng 10.000 năm.

Các quần thể khác cũng chưa được nghiên cứu. Quần thể riêng rẽ ăn cá và động vật biển có vú đã được nhận diện tại xung quanh nước Anh. Lối sống thể hiện chế độ ăn uống của chúng: Những con cá heo voi ăn cá tại Alaska và Na Uy không di trú, trong chúng tồn tại như 1 kết cấu xã hội. Trong khi những con cá heo voi ăn động vật biển có vú tại Argentina và Quần đảo Crozet có hành vi sống giống loại di cư hơn.

Ba loại cá voi sát thủ đã được ghi nhận trong các nghiên cứu tại Nam Cực. 2 loài lùn có tên Orcinus nanusOrcinus glacialis đã được mô tả bởi các nhà khoa học Xô Viết trong suốt thập niên 1980, nhưng hầu hết các nhà khoa học về động vật có vú dưới nước nghi ngờ về tình trạng của chúng, và khó để liên kết chúng với một trong những loại mô tả dưới đây: kéo dài từ trán đến sau vây lưng. Những mảng đốm trắng lại có màu vàng nhạt. Thức ăn chủ yếu là hải cẩu.

Loại B và loại C sống gần vùng nước đóng băng, tảo silic có thể là nguyên nhân tác động đến sự xuất hiện màu đốm vàng ở cả hai loại. Kiểm tra DNA ty thể chứng minh cho sự chia tách này mới chỉ diễn ra trong khoảng thời gian gần.

Ngoại hình và hình thái học

thumb|right|upright|Giải phẫu nội tạng cá voi sát thủ Một con cá voi sát thủ điển hình luôn có màu đen trên lưng, đốm trắng ở ngực và sườn bên, và 1 mảng đốm màu trắng nằm trên, đằng sau đuôi mắt. Những con non mới sinh có màu vàng hoặc cam nhạt, khi lớn sẽ dần dần chuyển sang màu trắng. Nó có cơ thể nặng nhưng mạnh mẽ, với 1 vây lưng lớn cao đến 2 m. Vùng đằng sau vây tay có màu xám tối chạy dài đến lưng. Lưng cá voi sát thủ Nam Cực có màu trắng đến xám nhạt.

Cá voi sát thủ trưởng thành rất khác biệt và không thể lẫn với bất kì sinh vật biển nào. Khi quan sát từ xa, những con chưa trưởng thành có thể bị nhầm lẫn với loài thuộc bộ cá voi, như cá ông chuông hay cá heo Risso. Răng cá heo voi rất khỏe và được bọc men răng, bộ hàm của chúng là bộ máy có khả năng kẹp mạnh mẽ, những chiếc răng hàm trên lấp đầy chỗ trống giữa các răng hàm dưới khi khép miệng. Những chiếc răng cửa có xu hướng nghiêng nhẹ về phía trước và bên ngoài, do đó cho phép nó chịu được động tác giật mạnh từ con mồi trong khi các răng giữa và răng hàm giữ chắc con mồi tại chỗ.

Cá voi sát thủ là thành viên lớn nhất hiện còn tồn tại của họ cá heo. Con đực thông thường dài từ 6–8 m, nặng hơn 6 tấn (khoảng 5,9-6,5 tấn). Con cái nhỏ hơn, thường dài 5–7 m, nặng khoảng 3-4 tấn. Con đực lớn nhất được ghi nhận có chiều dài 9,8 m, nặng hơn 10 tấn; trong khi con cái lớn nhất là 8,5 m, nặng 7,5 tấn. Con non mới sinh nặng khoảng 180 kg, dài khoảng 2,4 m. Bộ xương cá voi sát thủ cho thấy chúng có đặc điểm cấu trúc điển hình của Họ cá heo đại dương, nhưng mạnh mẽ hơn. Lớp da của nó không giống như nhiều loài cá heo khác, mang đặc trưng của lớp da phát triển tốt với mạng lưới dày đặc của sợi protein collagen và sợi cơ bắp to khoẻ.

Vòng đời

thumb|right|upright|1 con cá voi sát thủ trưởng thành mang đặc trưng vây lưng lớn bơi tại vùng nước gần Tysfjord, Na Uy. Cá voi cái trưởng thành ở tuổi 15, sau đó chúng bước vào thời kỳ của chu kỳ động dục và thời kỳ không có chu kỳ vào khoảng giữa 3-16 tháng. Thời gian mang thai từ 15-18 tháng.

Để tránh giao phối cận huyết, con đực và con cái kết đôi từ đàn khác. Con mẹ đang nuôi con, luôn chỉ có một con con duy nhất, khoảng một con trong 5 năm.

Con cái sinh sản đến khoảng 40 tuổi, nghĩa là trung bình vòng đời chúng nuôi năm con non. Tuổi thọ trung bình của những con cái là khoảng 50 tuổi, tối đa có thể lên tới 80-90 tuổi. Một con cái mang tên Granny (J2) được ước đoán khoảng 103 tuổi.

Con đực trưởng thành sinh lý ở độ tuổi 15, nhưng thường giao phối ở độ tuổi 21. Tuổi thọ trung bình của những con đực là khoảng 29 tuổi, tối đa là 50-60 năm.

Phạm vi và môi trường sống

Cá voi sát thủ đã được tìm thấy ở tất cả các đại dương và hầu hết các biển. Bởi phạm vi sống rộng lớn của chúng, số lượng, mật độ, đánh giá phân bố của chúng là rất khó, nhưng rõ ràng chúng thích ở những vùng nước vĩ độ cao và tầng nước trên cùng.

Hệ thống khảo sát cho thấy mật độ cao nhất của cá heo voi (>0,4 cá thể/100 km ²) ở vùng biển đông bắc Đại Tây Dương xung quanh bờ biển Na Uy, ở phía bắc Thái Bình Dương dọc theo quần đảo Aleut, Vịnh Alaska và ở vùng Nam Đại Dương nằm ở xa Châu Nam Cực.

Săn mồi

Cá voi sát thủ là loài động vật ăn thịt đầu bảng, tức là bản thân chúng không có kẻ thù ngoài tự nhiên. Chúng có thể ăn những con cá nhỏ, nhưng cũng có thể ăn những con cá voi con và cả loài cá mập trắng lớn, vốn là loài cá hung dữ nhất đại dương. Bằng cách săn mồi theo bầy (thường là cả một gia đình gồm 3-5 con hoặc thậm chí là hai gia đình cùng kết hợp), chúng tách con cá voi con ra khỏi cá voi mẹ và liên tục dùng các cú húc đầu khủng khiếp tấn công cá voi con cho đến khi cá voi con tử vong. Cá voi sát thủ có đặc điểm là được trang bị 50 cái răng sắc nhọn , tuy nhiên, chúng không đủ để cắn được lớp mỡ và da dày của cá voi con, vì vậy chúng ăn phần dễ bị tổn thương nhất của cá voi, đó là cái lưỡi giàu protein và cũng ăn hết thịt con mồi, và cũng được ghi nhận săn bắt cá mập trắng lớn, và dường như nhằm đến lá gan con mồi.

Khi gặp cá voi: Tách cá voi mẹ và cá voi con ra, dùng những cú húc đầu mạnh vào cá voi con, dìm cá voi con xuống để không cho cá voi con thở dẫn đến tử vong. Khi gặp cá mập: Chúng húc đầu vào thân cá mập làm cho con cá mập lật ngửa, cá mập sẽ không thể có tác động gì khi ở tư thế ngửa, rồi cá voi sát thủ chỉ cần cắn con cá mập đến chết. Khi gặp cá đuối: Dùng những cú quật đuôi, làm cho con cá đuối bất tỉnh, đồng thời gai độc của cá đuối sẽ bị gãy, cá voi chỉ cần ăn. Khi gặp sư tử biển, chúng bơi với tốc độ 56 km/h vào bờ rồi cắn con sử tử biển, rồi nó sau đó quay lại đại dương và ăn xác con mồi. Khi gặp hải cầu trên băng, chúng không thể húc đầu vào băng, vì vậy chúng cùng đồng loạt bơi và tạo sóng làm vỡ băng. Sau đó chúng ăn hải cầu.

Âm thanh của cá voi sát thủ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cá voi sát thủ**, còn gọi là **cá heo đen lớn** hay **cá hổ kình** (danh pháp hai phần: **_Orcinus orca_**) là một loài cá heo thuộc phân bộ cá voi có răng, họ hàng
**Granny** (sinh khoảng năm 1911, coi như đã chết vào tháng 1 năm 2017), còn được gọi là J2, là một con cá voi sát thủ, theo ước tính của một số nhà nghiên cứu
Cá voi sát thủ là kẻ thù cực mạnh của cá mập. Chúng thông minh và bá đạo nhất đại dương, luôn đi săn theo TEAM, nên càng thêm độ PRO vô đối của chúng.
**Keiko** (tên trước đó là **Siggi** và **Kago**, sinh khoảng ngày 24 tháng 9 năm 1976 - 12 tháng 12 năm 2003) là một chú cá voi sát thủ đóng vai Willy trong bộ phim
phải|Loài [[cá voi lưng gù nổi tiếng với những bài hát của chúng]] **Bài hát của cá voi** (tiếng Anh: _whale song_) là âm thanh mà cá voi tạo ra với mục đích giao tiếp
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
Khoảng 80-87 loài hiện nay trong bộ Cá voi. [[Phát sinh chủng loài học cho thấy mối quan hệ giữa các gia đình cá voi. ]] Các loài cá voi đã tiến hóa từ các
**Chi Cá voi hoa tiêu** (danh pháp khoa học: **_Globicephala_**) là một chi thuộc Họ Cá heo đại dương. Chi này có hai loài đang tồn tại. Hai loài này là không dễ dàng phân
**Cá nhà táng** (danh pháp hai phần: _Physeter macrocephalus_, tiếng Anh: _sperm whale_), là một loài động vật có vú sống trong môi trường nước ở biển, thuộc bộ Cá voi, phân bộ Cá voi
**Phân thứ bộ Cá voi** (danh pháp khoa học: **Cetacea**) (từ tiếng La tinh _cetus,_ cá voi) là một phân thứ bộ động vật có vú guốc chẵn gồm các loài như cá voi, cá
**Cá heo** là động vật có vú sống ở đại dương và sông nước có quan hệ mật thiết với cá voi. Có gần 40 loài cá heo thuộc 17 chi sinh sống ở các
phải|Thủy thủ đoàn tàu nghiên cứu hải dương "Princesse Alice" (Công Chúa Alice) của Albert Grimaldi (cố hoàng thân [[Albert I, hoàng thân Monaco|Albert I của Monaco) chụp một kiểu ảnh trong lúc chặt khúc
Đã xảy ra nhiều trường hợp xác **cá voi phát nổ** do tích tụ khí trong quá trình phân hủy. Thuốc nổ trong thực tế cũng đã được sử dụng để hỗ trợ xử lý
**Cá voi xám** (danh pháp hai phần: **_Eschrichtius robustus_**), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài
**Cá heo răng nhám** hay **cá heo răng thô** (danh pháp khoa học: _Steno bredanensis_) là một loài động vật có vú trong họ Cá heo đại dương, bộ Cetacea và là thành viên duy
**Cá mập trắng lớn** (danh pháp khoa học: **_Carcharodon carcharias_**), còn được biết đến với các tên gọi khác như **mũi kim trắng**, **cái chết trắng**, **cá mập trắng**, là một loài cá mập lớn
nhỏ|Selfharm arm **Trò chơi cá voi xanh** (; tiếng Anh: Blue Whale Challenge), còn được gọi là "Thử thách cá voi xanh", là một hiện tượng mạng xã hội có từ năm 2014 (tuy nhiên
**Cá heo đại dương** hay **họ Cá heo đại dương** (**Delphinidae**) là một họ cá heo phân bố rộng rãi ở biển. Ba mươi loài còn sinh tồn đã được mô tả. Chúng bao gồm
**_Sát thủ tháng 11_** (tựa tiếng Anh: **_The November Man_**) là một bộ phim hành động Mỹ năm 2014 của đạo diễn Roger Donaldson, dựa trên tiểu thuyết _There Are No Spies_ của Bill Granger.
**_Sát thủ John Wick: Phần 2_** (tựa tiếng Anh: **_John Wick: Chapter 2_**) là một bộ phim hành động giật gân Mỹ năm 2017 do Chad Stahelski đạo diễn và Derek Kolstad viết kịch bản.
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Cá heo đầu bò** là cá heo thuộc chi **_Lissodelphis_**. Chi này bao gồm hai phân loài là cá heo đầu bò phương bắc (_Lissodelphis borealis_) và cá heo đầu bò phương nam (_Lissodelphis peronii_).
**Cá ngừ vây xanh phương Nam** (Danh pháp khoa học: **_Thunnus maccoyii_**) là một loài cá ngừ trong họ họ cá thu ngừ Scombridae, trong nhóm cá ngừ vây xanh thường sống ở vùng nam
**Cá heo Dall** (danh pháp hai phần: **_Phocoenoides dalli_**) là thành viên duy nhất của chi **_Phocoenoides_** và cũng là một loài của cá heo chỉ có ở Bắc Thái Bình Dương. Nó được biết
phải|Không ảnh định vị hai tòa nhà Norris và West Ambler Johnston. **Thảm sát Đại học Bách khoa Virginia**, còn gọi là **Thảm sát Virginia Tech**, là một vụ bắn giết trong trường học gồm
Cá sấu sông Nin một trong các loài cá sấu thường tấn công con người Hàm răng sắc nhọn của một con [[cá sấu mõm ngắn]] **Cá sấu tấn công**, **cá sấu ăn thịt người**
thumb|[[Cá voi lưng gù (_Megaptera novaeangliae_)]] thumb|[[Hải cẩu báo (_Hydrurga leptonyx_)]] **Thú biển** hay **động vật có vú biển** là các loài thú (động vật có vú) sống dựa vào đại dương và các hệ
Vụ **Thảm sát Trường Trung học Columbine** xảy ra vào thứ Ba ngày 20 tháng 4 năm 1999 tại Trường Trung học Columbine, Quận Jefferson, tiểu bang Colorado, gần Littleton, và Denver, thủ phủ bang
**_Sát thủ John Wick: Phần 3 – Chuẩn bị chiến tranh_ ** (tựa tiếng Anh: _**John Wick: Chapter 3 – Parabellum**_) là một bộ phim hành động tội phạm Mỹ năm 2019, với sự tham
**_John Wick: Chapter 4_** (cách điệu khác là **_JW4_**) là một bộ phim hành động neo-noir của Mỹ do Chad Stahelski đạo diễn và Shay Hatten và Michael Finch viết kịch bản. Là phần tiếp
**Cá sấu** được phản ánh trong nhiều nền văn minh. Ở một số nơi, cá sấu đóng vai trò lớn, chi phối nhiều mặt ở đời sống tinh thần con người, cá sấu là biểu
**Jub Tai Wai Rai Sai Samorn** (tên tiếng Thái: **จับตายวายร้ายสายสมร**, tiếng Việt: **Băng nữ sát thủ Sai Samorn**) là bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng vào năm 2010. Phiên bản làm lại cùng
**_Vệ sĩ sát thủ 2: Nhà có nóc_** (tên gốc tiếng Anh: **_Hitman's Wife's Bodyguard_**) là phim hành động hài ra mắt năm 2021 của Mỹ, do Patrick Hughes đạo diễn và Tom O'Connor cùng
**_Sát thủ lưu vong_** (tiếng Trung: _放‧逐_, tiếng Anh: _Exiled_, Hán-Việt: _Phóng trục_) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động – tội phạm – chính kịch của điện ảnh Hồng Kông
**Livyatan melvillei** hay còn gọi là **siêu cá nhà táng** một thành viên đã tuyệt chủng của phân bộ cá voi có răng thời tiền sử và được xem là loài cá voi có răng
nhỏ|phải|Một con cá mập Những hình ảnh đại diện của các con cá mập rất phổ biến trong văn hóa đại chúng ở thế giới phương Tây với một loạt những sê-ri phim ảnh trên
**_Xin lỗi anh chỉ là sát thủ_** (tiếng Hàn Quốc: **럭키**, tiếng Anh: **Luck-Key**) là một bộ phim hài hành động của Hàn Quốc do đạo diễn Lee Gye-byeok thực hiện cùng với Yong Film
**Sát thủ quyền** là món võ mang lối đánh có tính sát thương cao, hiểu theo một góc độ rộng khắp thì nó cũng là một dạng của chân quyền, được chuyên biệt hóa về
là bộ phim hoạt hình Nhật Bản năm 2014 do đạo diễn Kobun Shizuno chỉ đạo và là phần phim điện ảnh thứ 18 dựa trên loạt phim hoạt hình và loạt truyện tranh _cùng
**_Sát thủ đầu mưng mủ_** (phụ đề: _Thành ngữ sành điệu bằng tranh_) là tên một cuốn sách tập hợp thành ngữ dân gian đương đại xuất bản năm 2011 của họa sĩ Thành Phong,
**Gustave** là một con cá sấu sông Nile đực ở Burundi. Nó nổi tiếng qua hàng loạt vụ giết người, và đồn rằng nó đã giết hơn 300 người bên bờ sông Ruzizi và bờ
**_Sát thủ Online_** là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam cùng Hãng phim Hội Điện ảnh Việt Nam do NSƯT
**Tôm sát thủ** (Danh pháp khoa học: _Dikerogammarus villosus_) là động vật thuộc loài xâm lấn có nguồn gốc từ những vùng nước trong thảo nguyên ở giữa Biển Đen và Biển Caspian. Chúng xâm
**_Zygophyseter varolai_** là một loài động vật biển có vú đã tuyệt chủng, tương tự như cá nhà táng. Tên thông dụng của chúng là "cá nhà táng sát thủ" dùng để chỉ cả mối
**_Song sinh sát thủ_** là một bộ phim tiểu sử tội phạm hồi hộp của Anh năm 2015 do Brian Helgeland đạo diễn và biên kịch. Đây là bộ phim chuyển thể từ cuốn sách
nhỏ|phải|Một phụ nữ ăn mặc kiểu Đuôi cá voi nhỏ|phải|Một người mẫu trình diễn thời trang Đuôi cá voi **Đuôi cá voi** (_Whale tail_) là một từ lóng chỉ về phần phía sau hình chữ
#đổi Cá voi sát thủ Thể loại:Họ Cá heo mỏ Thể loại:Chi cá voi đơn loài