✨HIV

HIV

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người hay HIV là hai loài Lentivirus (phân nhóm của retrovirus) xâm nhiễm cơ thể người. Qua thời gian, chúng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), tình trạng mà hệ miễn dịch ngày càng suy yếu cho phép ung thư và các loại nhiễm trùng cơ hội phát triển. Nếu không điều trị, thời gian sống sót trung bình của người nhiễm HIV ước tính từ 9 đến 11 năm, phụ thuộc vào loại virus. Trong hầu hết trường hợp, HIV là lây nhiễm qua đường tình dục xảy ra bởi việc tiếp xúc hay truyền máu, dịch Cowper, tinh dịch, và dịch âm đạo. Nghiên cứu chỉ ra HIV không thể lây qua giao hợp không bao cao su nếu đối tác dương tính HIV có tải lượng virus duy trì ở mức không phát hiện được, cả tình dục đồng giới lẫn khác giới. Con đường lây ngoài tình dục có thể là do người mẹ bị nhiễm truyền HIV cho con trong thai kỳ, do tiếp xúc với máu hoặc dịch âm đạo của mẹ trong lúc sinh nở và thông qua quá trình cho con bú. Trong những dịch cơ thể này, HIV hiện hữu cả ở dạng các hạt virus tự do lẫn virus trong tế bào miễn dịch bị nhiễm.

HIV nhiễm vào các tế bào trọng yếu trong hệ miễn dịch của con người như tế bào T hỗ trợ (đặc biệt là T CD4+), đại thực bào, và tế bào tua. Nhiễm HIV khiến lượng tế bào T CD4+ giảm đi thông qua một số cơ chế, bao gồm tiêu vong (pyroptosis) các tế bào T bị nhiễm, điêu vong (apoptosis) các tế bào không bị nhiễm, virus trực tiếp tiêu diệt các tế bào bị nhiễm, và tế bào T CD8+ tiêu diệt tế bào T CD4+ bị cho là nhiễm. Khi số lượng tế bào T CD4+ giảm xuống dưới mức nguy cấp, miễn dịch qua trung gian tế bào mất đi và cơ thể ngày một trở nên nhạy cảm với nhiễm trùng cơ hội, dẫn đến sự phát triển của AIDS.

Lịch sử và hiện trạng

Nguồn gốc

HIV xuất hiện trước nhất ở Kinshasa, nước Cộng hoà Dân chủ Congo, châu Phi vào niên đại 1920. Đối với nguồn gốc của virus suy giảm miễn dịch ở người, các nhà nghiên cứu cơ bản đã đạt tới nhận thức chung. Đây là một loài virus có nguồn gốc từ động vật, bắt nguồn từ Bộ Linh trưởng hoang dã ở miền trung tây châu Phi, về sau HIV từ chỗ đó bắt đầu lan rộng toàn cầu.

Virus suy giảm miễn dịch ở người có thể chia làm hai loại: HIV-1 và HIV-2, trong đó HIV-1 xem ra có nguồn gốc ở miền nam Cameroon từ SIVcpz (en), HIV-1 hoàn toàn gần gũi với virus gây suy giảm miễn dịch ở hắc tinh tinh (HIV-1 là hậu duệ của SIVcpz đặc hữu ở phân loài Pan troglodytes troglodytes của hắc tinh tinh) về thành phần cấu tạo gen, rất có khả năng là loài lây nhiễm cho người thông qua quần cá thể. Còn HIV-2 hoàn toàn gần gũi với virus suy giảm miễn dịch ở khỉ lông mày trắng đầu gối trắng (SIVsm) - một loài khỉ Cựu Thế giới sống ở duyên hải Tây Phi (từ miền nam Senegal đến miền tây Bờ Biển Ngà).

HIV-1 đã vượt qua lằn ranh loài ít nhất ba lần khác nhau dẫn tới sự xuất hiện của ba nhóm virus M, N, và O.

thumb|Từ trái sang phải: Chlorocebus-nguồn SIV, khỉ xồm bồ hóng-nguồn HIV-2, và tinh tinh-nguồn HIV-1 Có bằng chứng chỉ ra những người dính líu đến thịt động vật hoang dã, cả thợ săn lẫn người bán, thường mang SIV. Song, SIV là virus yếu và thường bị hệ miễn dịch của người áp chế trong vài tuần. Virus SIV cần truyền từ người này sang người khác nhanh chóng một vài lần mới đủ thời gian đột biến thành HIV. Thêm nữa, do tỷ lệ truyền từ người sang người tương đối thấp, virus chỉ có thể lây lan trong bối cảnh tồn tại một hay nhiều hơn đường truyền nguy cơ cao, điều được xem là chưa xuất hiện ở châu Phi trước thế kỷ 20.

Các đường truyền nguy cơ cao cụ thể cho phép virus thích nghi với cơ thể người và lây lan trong xã hội tùy thuộc thời điểm chuyển giao từ động vật sang người được đề xuất. Công tác nghiên cứu virus về mặt di truyền gợi ý tổ tiên chung gần đây nhất của HIV-1 nhóm M có từ khoảng năm 1910. Các tác giả đã liên hệ bệnh dịch HIV với sự nổi lên của chủ nghĩa thực dân và những thành phố thuộc địa lớn ở châu Phi dẫn tới những đổi thay trong xã hội, bao gồm các kiểu tiếp xúc tình dục khác (đặc biệt là đồng thời đa đối tác), nạn mại dâm lan tràn đi kèm tần suất các bệnh loét sinh dục cao (như giang mai) ở các thành phố thuộc địa mới mọc lên. Tỷ lệ lây nhiễm HIV trong giao hợp âm đạo thường là thấp nhưng sẽ tăng nhiều lần nếu một trong những đối tác bị loét sinh dục hệ quả từ bệnh lây qua đường tình dục. Các thành phố thuộc địa đầu thập niên 1900 đáng lưu tâm do nạn mại dâm và loét sinh dục thịnh hành đến mức mà năm 1928: 45% nữ cư dân khu phía đông thành phố Leopoldville là gái mại dâm và năm 1933 khoảng 15% cư dân thành phố bị giang mai.

Ca bệnh HIV/AIDS sớm nhất được ghi nhận ở người có thể truy nguyên vào năm 1959 ở Congo thuộc Bỉ. Virus này có thể xuất hiện lần đầu ở Hoa Kỳ từ giữa đến cuối những năm 1960, lúc đó một nam sinh 16 tuổi tên là Robert Rayford xuất hiện triệu chứng vào năm 1966, và chết vào năm 1969.

Một giả thuyết bổ sung khả dĩ khác chỉ ra, trong mấy năm sau Thế chiến II, phương pháp điều trị không an toàn được sử dụng rộng khắp ở châu Phi, ví dụ như việc tái sử dụng không vô trùng các ống tiêm dùng một lần trong các chiến dịch tiêm chủng đại trà, kháng sinh và điều trị chống sốt rét. Các nghiên cứu về thời điểm xuất hiện tổ tiên chung gần đây nhất của các nhóm HIV-1 M và O và HIV-2 nhóm A và B cho thấy rằng SIV đã tạo ra các dòng HIV có khả năng lây truyền trong suốt thế kỉ XX. Sự lây truyền HIV sang người phân tán theo thời gian này có nghĩa là không cần có yếu tố bên ngoài đơn lẻ nào để giải thích sự lây truyền HIV giữa các loài. Quan sát này nhất quán với hai quan điểm phổ biến về nguồn gốc của dịch HIV, đó là lây truyền SIV sang người trong quá trình giết mổ hoặc giết mổ các loài linh trưởng bị nhiễm bệnh và việc mở rộng thuộc địa của các thành phố ở châu Phi Hạ Sahara. Dưới sự làm việc liên tục không ngừng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kì cùng rất nhiều bác sĩ và nhà khoa học, đã tích luỹ số liệu bệnh học lưu hành có đủ tính tin cậy và thuyết phục, cho thấy rằng bệnh HIV/AIDS có thuyết nguyên nhân (en) truyền nhiễm nhất định, hơn nữa lưu hành ở trong một số quần thể được xác định. Đồng thời, vì nguyên do dùng chung kim tiêm cùng với số ca bệnh do truyền máu mà truyền nhiễm dần dần tăng nhiều cho nên các nhà khoa học bắt đầu điều tra bệnh nguyên mang tính truyền nhiễm này.

Các ca bệnh ban đầu là những người hít ma tuý và đồng tính nam mà khả năng miễn dịch suy giảm không rõ nguyên nhân. Họ biểu hiện những triệu chứng của viêm phổi do Pneumocystis (PCP), một loại nhiễm trùng cơ hội hiếm gặp xảy ra ở những người có hệ miễn dịch rất yếu. Không lâu sau, những người đồng tính nam bộc lộ một dạng ung thư da mà trước kia không phổ biến gọi là Sacom Kaposi (KS). Thêm nhiều ca PCP và KS xuất hiện dấy lên hồi chuông báo động cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và một đội đặc nhiệm CDC đã được thành lập để giám sát nguy cơ bùng phát. Ca AIDS đầu tiên nhìn về quá khứ được mô tả là ở Na Uy bắt đầu năm 1966.

Khởi đầu CDC không có tên chính thức cho căn bệnh và thường nhắc đến nó bằng tên những bệnh liên quan, ví dụ như bệnh hạch bạch huyết, ban đầu những người phát hiện ra HIV đã đặt tên virus theo tên bệnh này. CDC còn dùng tên Sacom Kaposi và nhiễm trùng cơ hội, trong khi báo chí nói chung dùng thuật ngữ GRID (viết tắt của gay-related immune deficiency, suy giảm miễn dịch liên hệ đồng tính nam). Trong hành trình đi tìm một cái tên và nhìn vào cộng đồng người mắc bệnh, CDC đã sáng tạo ra tên "bệnh 4H" vì có vẻ nó chỉ xảy ra ở các nhóm đối tượng mà đều có chữ cái đầu là h (trong tiếng Anh) cụ thể là người đồng tính (homosexuals), người dùng heroin (heroin users), người bị máu khó đông (hemophiliacs), và người Haiti (Haitians). Sau khi AIDS được xác định không chỉ có ở cộng đồng người đồng tính, Từ tháng 9 năm 1982 CDC bắt đầu sử dụng tên AIDS.

Năm 1983, Luc Montagnier - nhà virus học Pháp chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa virus phiên mã ngược và ung thư tại Viện Nghiên cứu Pasteur, Paris, cùng nhóm nghiên cứu của ông lần đầu tiên phân lập được một loại virus phiên mã ngược mới từ trong mẫu máu và hạch bạch huyết của một bệnh nhân HIV/AIDS trẻ tuổi mắc bệnh ung thư thịt Kaposi thời kì cuối. Qua chứng thực, đây là một loại virus vừa mới phát hiện, Viện Nghiên cứu Pasteur đem loại virus này gọi là Virus Liên quan đến Hạch bạch huyết (Lymphadenopathy-Associated Virus, LAV).

Ở bên kia Đại Tây Dương, bạn hợp tác của Montagnier lúc đó là Robert Gallo (en) - nhà khoa học y học sinh vật Hoa Kì công tác tại Sở Nghiên cứu Ung thư Quốc gia Hoa Kì, cùng nhân viên cấp dưới của ông cũng phân lập được virus mới từ trong gốc tế bào (cell strain) và dòng tế bào (cell line), đồng thời đem nó đặt tên là Virus Bệnh bạch huyết Tế bào Lympho T4 ở người loại IIIB/H9 (Human T-cell Leukemia Virus-IIIB/H9, HTLV-IIIB/H9). Năm 1986, tên gọi của virus này được thống nhất là Virus Suy giảm miễn dịch ở Người, để phản ánh rõ hơn tính chất gây suy giảm miễn dịch của virus mà không phải là gây ung thư. Năm 1987, Uỷ ban Phân loại Virus Quốc tế đã xác nhận tên gọi này.

Còn một nhóm khác làm việc đồng thời với hai nhóm của Gallo và Montagnier là nhóm của bác sĩ Jay Levy tại Đại học California, San Francisco. Ông đã độc lập phát hiện ra virus gây AIDS vào năm 1983 và đặt tên nó là retrovirus liên hệ AIDS (ARV). Virus này rất khác với virus mà hai nhóm Montagnier và Gallo báo cáo. Các chủng ARV đã lần đầu tiên chỉ ra tính không đồng nhất của HIV và một vài trong số chúng vẫn là ví dụ kinh điển về virus gây bệnh AIDS được tìm thấy ở Hoa Kỳ.

Đại lưu hành toàn cầu

Căn cứ vào báo cáo thống kê HIV/AIDS của Tổ chức Y tế Thế giới, vào năm 2004, ước tính có khoảng 40 triệu người trên toàn cầu (35,9 triệu đến 44,3 triệu người) sống chung với virus suy giảm miễn dịch ở người, trong đó có khoảng triệu người (2,8 đến 3,5 triệu người) chết vì bệnh HIV/AIDS. Những con số này đang gia tăng không ngừng, trong đó, các khu vực như Đông Á, Đông Âu và Trung Á có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Khu vực bị lây nhiễm nghiêm trọng nhất vẫn là châu Phi Hạ Sahara, đứng sau là Nam Á và Đông Nam Á.

K=K

Tháng 7 năm 2016, tuyên bố chung Không phát hiện = Không lây truyền (K=K) do người bị lây nhiễm và chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đưa ra. Tuyên bố này được 760 tổ chức đến từ 100 quốc gia công nhận, nguồn tài liệu bằng chứng bao gồm Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kì (CDC), Sở nghiên cứu Chứng dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kì (NIH, en), Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và tạp chí The Lancet.

HIV 90-90-90

Năm 2014, Tổ chức Y tế Thế giới công bố mục tiêu phòng trị HIV 90-90-90, nghĩa là: Năm 2020, 90% người bị truyền nhiễm biết được tình trạng mắc bệnh HIV/AIDS của mình, 90% người biết tình trạng mắc bệnh HIV/AIDS uống thuốc, 90% người uống thuốc ức chế thành công lượng virus.

Năm 2018, Amsterdam, Hà Lan đã đạt tới mục tiêu phòng trị này, số liệu là: 94-93-95.

Tiến độ phòng trị của Đài Loan vào tháng 8 năm 2018 là: 79-87-90.

Thuyết âm mưu

Thời kì Chiến tranh Lạnh, Uỷ ban An ninh Quốc gia Liên Xô (KGB) vì mục đích bêu xấu Hoa Kì, mà dụng tâm sách động một phong trào tuyên truyền, vu cáo HIV là vũ khí sinh hoá do phòng thí nghiệm Hoa Kì chế tạo ra. Giả thuyết này do Jakob Segal (en) - nhà sinh học đồng thời cũng là đặc công KGB, đề xuất, nói rằng bệnh HIV/AIDS là do hai loại virus khác nhau kết hợp mà thành.

Virus học

Phân loại

HIV là thành viên của chi Lentivirus thuộc họ Retroviridae. Các loài Lentivirus có nhiều điểm chung về hình thái và đặc tính sinh học. Lentivirus nhiễm vào nhiều loài động vật gây các bệnh kéo dài với thời kỳ ủ bệnh lâu đặc trưng. Chúng là những virus RNA có vỏ ngoài, liên dương, sợi đơn. Khi xâm nhập tế bào mục tiêu, bộ gen RNA virus biến đổi thành DNA sợi kép bởi một enzym mã hóa là transcriptase ngược (enzym phiên mã ngược) được vận chuyển cùng bộ gen virus trong hạt virus. Tiếp đó DNA virus nhập vào nhân tế bào và hợp nhất thành DNA tế bào bởi một enzym mã hóa là integrase (enzym hợp nhất) và các đồng nhân tố tế bào chủ. Khi đã hợp nhất, virus có thể trở nên tiềm ẩn cho phép nó và tế bào chủ trốn tránh hệ miễn dịch trong một thời gian vô định. HIV có thể duy trì bất hoạt trong cơ thể người lâu đến mười năm sau lần nhiễm đầu và không gây triệu chứng giai đoạn này. Song mặt khác DNA virus hợp nhất có thể được phiên mã, tận dụng tài nguyên tế bào chủ để tạo ra những protein virus và bộ gen RNA mới được đóng gói và giải phóng khỏi tế bào dưới dạng các hạt virus mới. Các hạt virus này sẽ tái khởi động chu kỳ nhân bản.

Có hai loại HIV đã được mô tả là HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là virus ban đầu được phát hiện và đặt tên là virus liên hệ bệnh hạch bạch huyết (LAV) và virus hướng bạch huyết T ở người 3 (HTLV-III). Loại này có độc lực và khả năng lây nhiễm cao hơn HIV-2, là nguyên nhân của đa số ca nhiễm HIV trên toàn cầu. Việc HIV-2 ít lây hơn so với HIV-1 dẫn đến tỷ lệ nhiễm do tiếp xúc HIV-2 thấp hơn. Vì khả năng lây nhiễm tương đối kém, HIV-2 đa phần bị hạn chế ở Tây Phi.

Kết cấu và bộ gen

Kết cấu hình thái

thumb|Giản đồ HIV hoàn chỉnh (virion HIV)Virus suy giảm miễn dịch ở người có đường kính khoảng 80 đến 140 nanômét, có hình khối 20 mặt. Màng ngoài virus là màng bọc lipid, đến từ tế bào túc chủ, đồng thời lấp vào gp120 và gp41 - hai loại protein của virus, trong đó gp41 là gp41 là protein xuyên màng, gp120 là mặt ngoài, kết hợp với gp41 thông qua tác dụng không cộng hoá trị (en). Mặt bên trong là stroma hình cầu do protein p17 hình thành, cùng với vỏ bọc hình nửa nón do protein p24 hình thành, vỏ bọc dưới kính kính hiển vi điện tử có mật độ electron cao. Bên trong vỏ bọc có chứa bộ gen RNA của virus, enzym (enzym phiên mã ngược, integrase, protease và ribonuclease) cùng với thành phần khác đến từ tế bào túc chủ (ví dụ như tRNA(Lys3), được coi là mồi dẫn của enzym phiên mã ngược).

Electron của màng bọc virus gây ra mật độ tăng cao, hơn nữa có thể thấy được hình dạng que nhô lên khỏi bề mặt. Hạt virion vỡ vụn và không hoàn chỉnh là thấy nhiều nhất, màng bọc đi sẽ mất đi tính toàn vẹn, virus vỡ vụn có hình dạng cắt khúc hoặc có dạng vặn xoắn phân tán ở trong hạt virion hoàn chỉnh tụ thành cụm.

Bao quanh chất nền là vỏ ngoài của virus có thành phần gồm hai lớp lipid lấy từ màng tế bào chủ người khi hạt virus mới hình thành nhô ra khỏi tế bào. Vỏ ngoài virus chứa những protein từ tế bào chủ và tương đối ít bản sao protein vỏ HIV, Protein vỏ được gen env HIV mã hóa cho phép virus gắn vào tế bào mục tiêu và dung hợp vỏ ngoài virus với màng tế bào mục tiêu, giải phóng nội hàm virus vào tế bào và khởi động chu kỳ lây nhiễm. Hơn nửa khối lượng của gai vỏ tam phân là glycan liên kết N. Mật độ glycan cao vì chúng bảo vệ protein virus bên dưới khỏi bị kháng thể trung hòa. Đây là một trong những phân tử bị glycosyl hóa tập trung nhất được biết và mật độ là đủ lớn để ngăn quá trình phát triển thông thường của glycan trong bộ máy Golgi và lưới nội chất. Vì thế, số lượng glycan đông đảo tồn tại như những glycan 'nhiều mannose' non (chưa trưởng thành) mà bình thường không có trên glycoprotein người, thứ được tiết ra hay hiện diện trên bề mặt tế bào. Quá trình bất thường và mật độ cao dẫn đến việc gần như tất cả kháng thể trung hòa mà con người biết cho đến nay (từ nhóm bệnh nhân bị nhiễm nhiều tháng đến nhiều năm) đều bám vào hoặc thích nghi để đối phó với những glycan vỏ này.

Gen soạn mã

Bộ gen của HIV là hai sợi RNA chuỗi dương tương đồng, có tổng chiều dài khoảng 9,7 kbp, bao bọc bên trong một vỏ protein của virus, ngoại vi của nucleocapsid là lớp kép lipid bắt nguồn từ màng tế bào của túc chủ, cũng bao gồm protein màng do virus soạn mã.

Trình tự trùng lặp đoạn cuối dài ở hai đầu mút của bộ gen HIV đã phát huy tác dụng điều tiết chỉnh hợp gen, biểu hiện gen của virus và nhân đôi virus. Bộ gen HIV có chứa ba gen kết cấu (gag, polenv), 2 gen điều tiết (tat - nhân tử kích hoạt kiểu ngược, rev - nhân tử điều tiết sự biểu hiện protein của hạt virion) và 4 gen phụ trợ (nef - nhân tử điều tiết âm, vpr - protein R virus, vpu - protein U virus và vif - nhân tử truyền nhiễm virus). Trong đó trình tự gen gag soạn mã cho protein của nucleocapsid; trình tự gen env soạn mã cho hai loại glycoprotein cần thiết là gp120 và gp41 - glycoprotein của màng bọc virus, nơi virus truyền nhiễm tế bào; trình tự gen pol soạn mã cho enzym cần thiết là enzym phiên mã ngược, integrase và protease của virus, nơi virus nhân đôi.

Do enzym phiên mã ngược không có chức năng sửa lỗi hiệu chính cho nên xuất hiện biến dị tuỳ tiện, tần suất nhân đôi virus cao, giữa DNA virus và DNA túc chủ tồn tại tái tổ hợp gen, sẽ xuất hiện tính kháng thuốc. Điều này khiến cho virus gây bệnh HIV/AIDS trở thành một loại virus có tính biến dị rất mạnh. Từng bộ phận của mỗi gen có cường độ biến dị khác nhau, trong đó gen env phát sinh biến dị dễ dàng nhất.

Trình tự acid nucleic của HIV-2 và HIV-1 có sự khác biệt khá lớn, chỉ có 40 - 50% là giống nhau. Tuy nhiên, kết cấu gen của hai loại cơ bản tương đồng, chỉ là HIV-2 không có gen vpu, nhưng mà tồn tại gen vpx.

Chủng lưu hành chủ yếu của virus gây suy giảm miễn dịch ở người tại Trung Quốc và Đông Nam Á là HIV-1, trước mắt đã phát hiện 10 loại phân tuýp, phân tuýp chủ yếu lưu hành trong cộng đồng là kiểu tái tổ hợp AE (CRF01-AE) và tái tổ hợp BC (CRF07-BC).

Hướng tính

Thuật ngữ hướng tính virus nói đến loại tế bào mà virus xâm nhiễm. HIV có thể nhiễm vào nhiều loại tế bào miễn dịch như T CD4+, đại thực bào, và vi bào thần kinh đệm. HIV-1 nhập vào đại thực bào và tế bào T CD4+ trung gian qua sự tương tác của glycoprotein vỏ virion (gp120) với phân tử CD4 trên màng tế bào mục tiêu và với đồng thụ thể chemokine.

Các chủng HIV-1 hướng đại thực bào (hướng M) hay chủng không gây hợp bào (NSI, nay gọi là virus R5) dùng thụ thể β-chemokine CCR5 để xâm nhập và nhờ đó có thể nhân bản trong cả đại thực bào lẫn tế bào T CD4+. Gần như tất cả HIV-1 phân lập ban đầu sử dụng đồng thụ thể CCR5 này bất kể loại con di truyền. Đại thực bào thực sự đóng vai trò then chốt trong một số khía cạnh quan trọng của quá trình nhiễm HIV. Chúng dường như là tế bào đầu tiên mà HIV nhiễm vào và có lẽ là nguồn sản sinh HIV khi tế bào CD4+ cạn kiệt ở bệnh nhân. Vi bào thần kinh đệm và đại thực bào là những mục tiêu của HIV ở hệ thần kinh trung ương. Ở amidan và hạch hạnh nhân của bệnh nhân HIV, đại thực bào dung hợp thành những cự bào đa nhân là thứ sản sinh lượng virus khổng lồ.

Các chủng HIV-1 hướng T hay chủng gây hợp bào (SI, nay gọi là virus X4

Các chủng HIV-1 hướng kép được cho là chủng chuyển tiếp của HIV-1 và do đó có thể sử dụng cả đồng thụ thể CCR5 và CXCR4 để xâm nhập.

Alpha-chemokine SDF-1, một phối tử cho CXCR4, kìm hãm sự nhân bản của HIV-1 phân lập hướng T bằng việc điều chỉnh giảm biểu hiện của CXCR4 trên bề mặt tế bào mục tiêu của HIV. HIV-1 phân lập hướng M mà chỉ dùng thụ thể CCR5 được gọi là R5, chỉ dùng CXCR4 gọi là X4, dùng cả hai là X4R5. Tuy nhiên, việc chỉ áp dụng đồng thụ thể không lý giải hướng tính virus khi mà không phải tất cả virus R5 đều có thể sử dụng CCR5 trên đại thực bào để xâm nhiễm hàng loạt Đó có thể cấu thành một nguồn duy trì tình trạng nhiễm virus khi số lượng tế bào T CD4+ đã giảm xuống mức cực thấp.

Một số người đề kháng những chủng HIV nhất định. Ví dụ người có đột biến CCR5-Δ32 đề kháng virus R5 do đột biến khiến HIV không thể bám vào đồng thụ thể này, làm giảm khả năng xâm nhập tế bào mục tiêu của nó.

Quan hệ tình dục là phương thức lây truyền HIV chủ yếu. Cả HIV X4 và R5 đều có trong tinh dịch cho phép virus lây từ một người nam giới sang bạn tình của người đó. Tiếp theo các virion có thể nhiễm vào nhiều tế bào mục tiêu và lan truyền khắp cơ thể. Tuy vậy một quá trình chọn lọc đã khiến đây là con đường lây chính của virus R5. Ở bệnh nhân nhiễm HIV-1 tiểu loại B thường có sự thế chỗ đồng thụ thể vào giai đoạn muộn và những biến thể hướng T có thể nhiễm vào nhiều loại tế bào T qua CXCR4. Sau đó những biến thể này nhân bản tích cực hơn với độc lực tăng cường khiến tế bào T giảm nhanh, hệ miễn dịch suy sụp, và nhiễm trùng cơ hội xảy đến đánh dấu sự xuất hiện của AIDS. Do đó trong quá trình nhiễm, việc virus thích ứng với sử dụng CXCR4 thay vì CCR5 có thể là một bước then chốt trên con đường tới AIDS. Một số nghiên cứu với bệnh nhân nhiễm HIV tiểu loại B đã xác định rằng 40 đến 50 phần trăm bệnh nhân AIDS có thể mang virus X4.

Chu kỳ nhân bản

thumb|upright=1.4|Chu kỳ nhân bản của HIV

Xâm nhập tế bào

thumb|upright=1.4|Cơ chế xâm nhập của virus: 1. Tương tác khởi động giữa gp120 và CD4. 2. Gp120 biến đổi hình thể cho phép tương tác thứ hai với CCR5. 3. Các đỉnh xa của gp41 gài vào màng tế bào. 4. gp41 biến đổi hình thể đáng kể, gập làm đôi thành bó. Quá trình này kéo màng tế bào và màng virus lại gần nhau rồi dung hợp chúng. Virion HIV xâm nhập đại thực bào và tế bào T CD4+ bằng cách đưa những glycoprotein trên bề mặt của nó hút bám vào thụ thể trên tế bào mục tiêu rồi dung hợp vỏ ngoài virus với màng tế bào mục tiêu và giải phóng capsid vào tế bào.

Quá trình nhập bào bắt đầu với việc tổ hợp tam phân (gai gp160) trên vỏ ngoài virus tương tác với CD4 và một đồng thụ thể chemokine (nhìn chung là CCR5 hoặc CXCR4 nhưng còn loại khác đã được biết) trên bề mặt tế bào mục tiêu. Gai gp160 chứa một vùng gắn cho cả CD4 và những thụ thể chemokine. Tế bào tua là một trong những tế bào đầu tiên mà HIV gặp trong lây truyền tình dục. Hiện chúng được xem đóng một vai trò quan trọng bởi việc truyền HIV đến tế bào T khi chúng bắt giữ virus trong niêm mạc.

Con người từ lâu đã tin rằng quá trình xâm nhập của HIV-1 cũng như của nhiều retrovirus khác chỉ xảy ra ở màng tế bào. Tuy nhiên gần đây hơn có báo cáo về việc HIV-1 xâm nhiễm hiệu quả bằng nhập bào qua trung gian clathrin độc lập pH và đó được gợi ý cấu thành con đường vào hữu hiệu duy nhất.

Sao chép và phiên mã

Không lâu sau khi capsid của virus vào trong tế bào, một enzym gọi là transcriptase ngược (enzym phiên mã ngược) giải phóng bộ gen RNA sợi đơn dương khỏi những protein virus gắn liền và sao chép nó thành một phân tử DNA bổ sung (cDNA). Quá trình phiên mã ngược cực kỳ dễ bị lỗi dẫn đến những đột biến có thể gây kháng thuốc hoặc cho phép virus né tránh hệ miễn dịch của cơ thể. Trong phiên mã ngược còn có hoạt động ribonuclease làm suy biến RNA virus trong tổng hợp cDNA và hoạt động polymerase DNA lệ thuộc DNA tạo ra một DNA liên dương từ cDNA liên âm. cDNA cùng phần bù của nó tạo ra DNA virus sợi đôi được vận chuyển vào nhân tế bào. Một enzym khác của virus là integrase giúp tích hợp DNA virus vào bộ gen của tế bào chủ. Một số RNA chuẩn độ dài này có chức năng làm bản sao mới của bộ gen virus, trong khi số khác đóng vai trò mRNA được dịch mã để tạo ra những protein cấu trúc Gag và Env. Protein Gag gắn vào bản sao của bộ gen RNA virus để đóng gói chúng thành những hạt virus mới.

HIV-1 và HIV-2 dường như đóng gói RNA theo cách khác nhau. HIV-1 sẽ gắn vào mọi RNA phù hợp trong khi HIV-2 ưu tiên gắn vào mRNA mà từng tạo ra protein Gag.

Tái tổ hợp

Hai bộ gen RNA được đóng vỏ capsid ở mỗi hạt HIV-1. Tái tổ hợp giữa hai bộ gen có thể xảy ra mỗi khi xâm nhiễm và sao chép được xúc tác bởi transcriptase ngược hay trong quá trình bộ gen RNA liên dương, sợi đơn được phiên mã ngược tạo ra DNA. Trong phiên mã ngược, DNA mới sinh có thể chuyển đổi nhiều lần giữa hai bản sao RNA virus. Hình thức tái tổ hợp này được gọi là lựa chọn bản sao. Những sự kiện tái tổ hợp có thể xảy ra thông qua bộ gen. Trong mỗi chu kỳ nhân bản có thể có hai đến 20 sự kiện tái tổ hợp và những sự kiện này có thể tráo đổi nhanh chóng thông tin di truyền được truyền từ bộ gen cha mẹ sang bộ gen con. Về nguyên tắc, tái tổ hợp còn có thể góp phần giúp virus vượt qua hàng rào miễn dịch của vật chủ. Tuy nhiên để vận dụng những lợi thế thích nghi của biến dị di truyền thì hai bộ gen virus được đóng gói trong các hạt virus cần sinh ra từ những virus cha mẹ riêng biệt có cấu tạo gen khác nhau. Chưa rõ sự đóng gói hỗn hợp này xảy ra ở mức độ thường xuyên như thế nào dưới những điều kiện tự nhiên.

Bonhoeffer et al. gợi ý rằng việc chuyển khuôn bởi phiên mã ngược đóng vai trò như một quá trình sửa chữa những chỗ hỏng trong bộ gen RNA sợi đơn. Tương tự Hu và Temin gợi ý tái tổ hợp là sự thích nghi để sửa chữa tổn thương trong bộ gen RNA. Do đó, bộ gen HIV có thể gặp nguy hiểm với những tổn thương oxy hóa bao gồm những điểm đứt trong RNA sợi đơn. Đối với HIV nói riêng và virus nói chung, để xâm nhiễm thành công đòi hỏi chúng phải vượt qua những chiến lược phòng thủ của vật chủ trong đó có việc sản xuất những loại oxy phản ứng phá hoại bộ gen. Vậy nên Michod et al. gợi ý rằng tái tổ hợp là một sự thích nghi để sữa chữa tổn thương bộ gen và biến dị tái tổ hợp là một sản phẩm phụ có thể mang đến lợi ích riêng.

Lắp ráp và giải phóng

thumb|HIV bao quanh trên bề mặt đại thực bào bị nhiễm. Virion HIV được đánh dấu bằng huỳnh quang màu xanh lá cây và quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang. Lắp ráp virion HIV-1 mới là bước cuối cùng của chu kỳ nhân bản, bắt đầu tại màng tế bào của tế bào chủ. Polyprotein Env (gp160) đi qua mạng lưới nội chất và được vận chuyển đến bộ máy Golgi. Tại đó nó nó bị furin chẻ đôi thành hai glycoprotein vỏ ngoài HIV là gp41 và gp 120. Hai glycoprotein này được đưa đến màng tế bào, ở đó gp41 đính chặt gp120 vào màng. Các polyprotein Gag (p55) và Gag-Pol (p160) cũng liên kết với bề mặt trong của màng tế bào cùng với RNA bộ gen HIV khi virion đang hình thành bắt đầu chồi ra khỏi tế bào. Virion chui ra vẫn chưa hoàn thiện khi mà những polyprotein gag vẫn cần được bổ tách thành protein nucleocapsid, capsid, và chất nền thực sự. Sự phân cắt diễn ra gián tiếp qua protease virus đóng gói và có thể bị kìm hãm bởi những thuốc kháng retrovirus loại ức chế protease. Những thành phần cấu trúc khác nhau lắp ráp tạo ra virion HIV hoàn thiện. Chỉ những virion hoàn thiện mới có thể tiếp tục nhiễm vào tế bào khác.

Lây lan trong cơ thể

left|thumb|Ảnh động mô tả HIV lây lan không tế bào. Quá trình lây nhiễm tế bào thông thường của virion có thể được gọi là "lây không tế bào" để phân biệt với một quá trình mới được công nhận gần đây hơn là "lây từ tế bào sang tế bào". Trong lây không tế bào, các hạt virus chồi ra khỏi tế bào T bị nhiễm, đi vào máu hoặc dịch ngoại bào rồi nhiễm vào tế bào T khác mà chúng tình cờ gặp mặt. Thứ hai, một tế bào trình diện kháng nguyên (APC) như đại thực bào hoặc tế bào tua có thể truyền HIV đến tế bào T bằng quá trình bao hàm xâm nhiễm sinh sản (trường hợp đại thực bào) hoặc bắt giữ và đưa virion đi (trường hợp tế bào tua). Cho dù là con đường nào thì nhiễm kiểu tế bào sang tế bào được cho hiệu quả hơn nhiều lây không tế bào. Có một số yếu tố góp phần làm gia tăng sự hiệu quả như định hướng virus đến điểm tiếp xúc giữa hai tế bào, khoảng cách gần giữa các tế bào giúp virion giảm thiểu khuếch tán trong dịch cơ thể, và tập hợp thụ thể nhập bào của HIV về vùng tiếp xúc. Việc có nhiều cơ chế lây lan góp phần giúp HIV nhân bản bất chấp những liệu pháp kháng retrovirus.

Biến dị di truyền

thumb|right|Cây phả hệ của SIV và HIV HIV khác nhiều virus ở chỗ nó có có tính biến dị di truyền rất cao. Sự đa dạng này đến từ việc HIV sinh sôi nhanh lên tới khoảng 1010 virion mỗi ngày cộng với tỷ lệ đột biến cao xấp xỉ 3 x 10−5 mỗi nucleobase một chu kỳ nhân bản và đặc tính tái tổ hợp di truyền của phiên mã ngược.

Các yếu tố trên kết hợp tạo ra nhiều biến thể HIV ở một bệnh nhân trong thời gian một ngày. Mặc dù virus có nhiều trong máu vật chủ nhưng chỉ khơi gợi phản ứng miễn dịch nhẹ, không gây ra AIDS ở khỉ và không trải qua quá trình tái tổ hợp và đột biến sâu rộng như đặc thù của nhiễm HIV ở người.

Tuy nhiên khi những chủng này nhiễm vào các loài không thích nghi với SIV (như khỉ rezut hay khỉ đuôi dài) thì AIDS phát triển ở động vật nhiễm và virus phát sinh sự đa dạng di truyền tương tự như thấy ở người. SIV tinh tinh (SIVcpz), loại quan hệ gần nhất với HIV-1, có thể đã làm tăng tỷ lệ tử vong và triệu chứng giống AIDS ở vật chủ tự nhiên của nó. SIVcpz dường như mới lây sang tinh tinh và người tương đối gần đây nên vật chủ của nó chưa thích nghi được.

Con người đã nhận biết ba nhóm HIV-1 trên cơ sở sự khác biệt ở vùng vỏ ngoài là M, N, và O. Nhóm M thịnh hành nhất và được chia thành tám tiểu loại (phân loại, hay nhánh) dựa vào bộ gen tổng thể. Các tiểu loại khác biệt về mặt địa lý, phổ biến nhất là B (chủ yếu ở Bắc Mỹ và châu Âu), A và D (chủ yếu ở châu Phi), và C (chủ yếu ở châu Phi và châu Á). Chúng tạo ra các nhánh trong cây phả hệ đại diện cho dòng nhóm M của HIV-1. Tình huống đồng nhiễm các tiểu loại khác nhau dẫn đến những hình thái tái tổ hợp lưu thông (CRF). Vào năm 2000, năm cuối cùng con người tiến hành một phân tích mức độ phổ biến của các tiểu loại trên toàn cầu, thì 47,2% ca nhiễm trên thế giới là tiểu loại C, 26,7% là tiểu loại A/CRF02_AG, 12,3% là tiểu loại B, 5,3% là CRF_AE, và 5,3% còn lại là những tiểu loại và CRF khác. Hầu hết nghiên cứu HIV-1 tập trung vào tiểu loại B và chỉ có ít phòng thí nghiệm quan tâm đến tiểu loại khác. Sự tồn tại của một nhóm thứ tư là P đã được giả định dựa vào một virus phân lập năm 2009. Chủng này xem ra có nguồn gốc từ SIV khỉ đột (SIVgor) được phân lập lần đầu từ khỉ đột vùng đất thấp miền tây vào năm 2006.

Chẩn đoán

upright=1.4|thumb|right|Đồ thị tổng quát về quan hệ giữa tải lượng HIV và số đếm tế bào CD4 trong quá trình nhiễm HIV không điều trị, diễn biến bệnh có thể khác biệt đáng kể đối với từng người.
Nhiều người dương tính HIV mà không biết, đặc biệt tại những nước nghèo lạc hậu. Ví dụ vào năm 2001 chưa đến 1% dân số đô thị hoạt động tình dục ở châu Phi được xét nghiệm và tỷ lệ này còn thấp hơn ở cư dân nông thôn.

Xét nghiệm chất hấp phụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA) để phát hiện kháng thể HIV-1 là phương pháp được thực hiện đầu tiên. Các mẫu từ ELISA mà có kết quả không phản ứng được xem là âm tính HIV trừ khi có tiếp xúc mới với đối tác bị nhiễm hoặc không rõ có nhiễm HIV hay không. Với các mẫu có kết quả ELISA phản ứng, người ta sẽ xét nghiệm lại hai lần. Nếu kết quả của cả hai lần xét nghiệm đều phản ứng thì mẫu được báo cáo là phản ứng lặp lại và cần thêm một xét nghiệm bổ sung đặc hiệu hơn để xác nhận (ví dụ phản ứng chuỗi polymerase (PCR), phép thấm tách tây, hay ít phổ biến hơn là xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang (IFA)). Chỉ khi mẫu liên tục phản ứng với ELISA và dương tính với IFA hay PCR hoặc phản ứng với phép thấm tây thì mới được xem là dương tính HIV và chỉ định nhiễm HIV. Các mẫu phản ứng ELISA lặp lại thi thoảng có kết quả thấm tách tây không rõ ràng, điều này có thể là phản ứng kháng thể không đầy đủ với HIV ở người nhiễm hoặc phản ứng không đặc hiệu ở người không nhiễm.

Mặc dù có thể áp dụng IFA để xác nhận tình trạng nhiễm HIV trong những trường hợp mơ hồ nhưng cách này không phổ biến. Nhìn chung mẫu thứ hai cần thu thập hơn một tháng sau và xét nghiệm lại cho người có kết quả thấm tách tây không rõ ràng. Xét nghiệm nucleic acid (ví dụ phương pháp khuếch đại DNA tiền virus hoặc RNA virus) cũng có thể giúp chẩn đoán trong những tình huống nhất định nhưng ít thấy hơn nhiều. Ước tính xác suất kết quả dương tính giả trong giao thức xét nghiệm hai bước tiêu chuẩn là khoảng 1 trên 250.000 ở nhóm dân nguy cơ thấp. Xét nghiệm sau phơi nhiễm được khuyến cáo thực hiện ngay lập tức rồi tiếp đến là sau sáu tuần, ba tháng, và sáu tháng.

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo xét nghiệm HIV phải bắt đầu bằng một xét nghiệm miễn dịch kết hợp tìm kháng thể HIV-1, HIV-2, và kháng nguyên p24. Kết quả âm tính sẽ loại bỏ khả năng nhiễm HIV còn nếu kết quả dương tính thì thực hiện một xét nghiệm miễn dịch phân biệt kháng thể HIV-1/2 để phát hiện kháng thể nào có mặt. Điều này dẫn đến bốn kịch bản có thể như sau:

    1. HIV-1 (+) & HIV-2 (−): phát hiện kháng thể HIV-1
    1. HIV-1 (−) & HIV-2 (+): phát hiện kháng thể HIV-2
    1. HIV-1 (+) & HIV-2 (+): phát hiện cả kháng thể HIV-1 và HIV-2
    1. HIV-1 (−) hoặc không rõ & HIV-2 (−): cần tiến hành xét nghiệm nucleic acid để xem có nhiễm HIV-1 cấp tính hay không.

Chữa trị và lây truyền

Cách thông thường để kiểm soát HIV/AIDS là sử dụng nhiều loại thuốc kháng retrovirus. Ở nhiều nơi trên thế giới, HIV đã trở thành tình trạng mạn tính và ngày càng hiếm khi tiến triển thành AIDS.

Tính tiềm ẩn của HIV và ổ chứa virus trong tế bào T CD4+, tế bào tua, và đại thực bào là rào cản chính ngăn chặn nỗ lực diệt trừ virus. Tuy nhiên, sau nhiều nghiên cứu thì hiện đã rõ ràng là khả năng mà một người dương tính HIV có tải lượng virus duy trì ở mức không phát hiện được truyền HIV qua đường tình dục là bằng không.

Herpes sinh dục (HSV-2) tái hoạt hóa ở người nhiễm virus liên hệ với sự gia tăng tế bào T CD4+ dồi dào CCR-5 và tế bào tua kích thích dưới niêm mạc da sinh dục. Vì HIV hướng đến những tế bào có CCR-5 nên những người bị herpes sinh dục có nguy cơ lây nhiễm HIV cao gấp hai đến ba lần. Thuốc kháng virus thường ngày (như acyclovir) không làm giảm viêm hậu tái kích hoạt cận lâm sàng do đó không giúp giảm nguy cơ nhiễm HIV.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Virus gây suy giảm miễn dịch ở người** hay **HIV** là hai loài _Lentivirus_ (phân nhóm của retrovirus) xâm nhiễm cơ thể người. Qua thời gian, chúng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
**Hội chứng nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người** (viết tắt **HIV/AIDS**); ; hoặc **SIDA** theo tiếng Pháp **'), còn gọi là **bệnh liệt kháng''' (tê liệt khả năng đề kháng), là một
**HIV/AIDS tại Việt Nam** là tình trạng lây nhiễm, bùng phát hội chứng suy giảm miễn dịch ở người xảy ra trên lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng
**Các xét nghiệm HIV** được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), loại virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
Kể từ các báo cáo về sự xuất hiện và lây lan của virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) ở Hoa Kỳ trong thập niên 1970 và 1980, các nhà dịch tễ
**Cục Phòng, chống HIV/AIDS** (tiếng Anh: _Vietnam Administration of HIV/AIDS Control_, viết tắt là **VAAC**) là cơ quan trực thuộc Bộ Y tế, giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý
Một tỷ lệ nhỏ người trên thế giới có khả năng **miễn dịch bẩm sinh đối với HIV** một phần hoặc toàn phần, loại virus gây ra bệnh AIDS. Cơ chế chính là ở đột
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Malaysia bắt đầu vào năm 1986 và từ đó HIV trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với sức khoẻ và sự phát triển
phải|nhỏ|Các phương pháp tiếp cận khác nhau để phát triển vắc-xin HIV Một **vắc-xin HIV **với** **mục đích có thể bảo vệ những cá nhân không bị nhiễm HIV khỏi siêu vi rút này (một
**Phân biệt đối xử với PL HIV/AIDS** hay **serophobia **là định kiến, nỗi sợ, chối từ và phân biệt đối xử với những người nhiễm HIV/AIDS (PLHIV). Phân biệt đối xử là một trong những
nhỏ| Viên nén Truvada, dạng phối hợp [[Emtricitabine/tenofovir|tenofovir/emtricitabine được dùng để điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV]] **Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV** (tiếng Anh: _Pre-exposure prophylaxis for HIV prevention_, viết
Kể từ khi HIV/AIDS lần đầu tiên được báo cáo ở Thái Lan vào năm 1984, khoảng 1.115.415 người trưởng thành bị nhiễm vào năm 2008, với 585.830 người đã chết từ năm 1984. Khoảng
Không có số liệu thống kê độc lập về tỷ lệ hiện nhiễm **HIV/AIDS ở Triều Tiên**. Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chính thức khẳng định hoàn toàn không có
nhỏ|Thống kê về số trường hợp nhiễm HIV theo tỉnh thành, dữ liệu năm 2005. Đại dịch HIV/AIDS tồn tại trong lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Phần
HIV/AIDS (virus gây suy giảm miễn dịch ở người và hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải) ở Myanmar, được Bộ Y tế quan tâm xem là một vấn đề xã hội và y
**HIV/AIDS ở Bhutan** vẫn là một bệnh tương đối hiếm. Tuy nhiên, nó đã trở thành mối quan ngại quốc gia kể từ khi báo cáo đầu tiên của Bhutan được đưa ra vào năm
Bộ gen và protein của HIV (virus gây suy giảm miễn dịch ở người) là chủ đề của nghiên cứu sâu rộng kể từ khi phát hiện ra virus này vào năm 1983. "Trong quá
**HIV/AIDS ở Nhật Bản** đã được xác định là vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nhận thức chung trong người dân Nhật Bản về các bệnh lây truyền
Campuchia là một trong những quốc gia có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao nhất ở Châu Á. Mặc dù Campuchia là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, nhưng nỗ lực phòng chống
**Nuôi con bằng sữa mẹ cho những bà mẹ nhiễn HIV** là cách thực hành cho con bú của những bà mẹ nhiễm HIV và bao gồm cả những người có thể muốn hoặc hiện
[[Tập tin:AIDS and HIV prevalence 2009.svg|thumb|Tỉ lệ nhiễm AIDS và HIV năm 2009 ]] thumb|[[Đánh giá gánh nặng bệnh tật về HIV và AIDS trên mỗi nhóm 100,000 dân số ]] HIV/AIDS là một đại dịch
nhỏ|260x260px|[[Darunavir, một loại thuốc kháng retrovirus]] **Kiểm soát HIV/AIDS** thông thường muốn chỉ đến việc sử dụng nhiều loại thuốc kháng retrovirus với nỗ lực nhằm kiểm soát nhiễm HIV. Có các loại thuốc kháng
**HIV Tat** (_Tat_ là chữ viết tắt của _Transactivator_) là một gen điều hòa có tác dụng thúc đẩy sự _sinh sản_ của virus HIV. Đây là thành tố rất quan trọng, không có nó
thumb|Tỉ lệ nhiễm AIDS và HIV năm 2009. Theo thống kê từ CIA World Factbook (2009), các quốc gia có tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS cao nhất tại châu Âu là Estonia (1.20% trong độ tuổi
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADptin:HIV-1_Transmission_electron_micrograph_AIDS02bbb_lores.jpg|phải|nhỏ|250x250px| [[Kính hiển vi điện tử truyền qua|Ảnh hiển vi điện tử của vi rút suy giảm miễn dịch ở người. Những người phủ nhận HIV/AIDS tranh cãi về sự tồn tại của HIV hoặc
Test thử là một thử nghiệm sắc ký miễn dịch nhanh phát hiện và phân biệt tất cả các kháng thể (IgG, IgM, IgA) đặc hiệu với bao gồm type phụ O và trong mẫu
Test thử là một thử nghiệm sắc ký miễn dịch nhanh phát hiện và phân biệt tất cả các kháng thể (IgG, IgM, IgA) đặc hiệu với bao gồm type phụ O và trong mẫu
nhỏ|Tòa nhà trụ sở UNAIDS tại Geneva, Thụy Sĩ. **Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV và AIDS** (**UNAIDS**) là tổ chức ủng hộ chính cho hành động toàn cầu cấp tốc,
HIV 1/2 RAPID TEST FASTEP là xét nghiệm HIV chuyên dụng, được sản xuất bởi công ty Fastep của Mĩ. Test xét nghiệm phát hiện kháng thể HIV1 / HIV-2 trong máu, huyết thanh hoặc
HIV 1/2 RAPID TEST FASTEP là xét nghiệm HIV chuyên dụng, được sản xuất bởi công ty Fastep của Mĩ. Test xét nghiệm phát hiện kháng thể HIV1 / HIV-2 trong máu, huyết thanh hoặc
Bộ test HIV gồm có: 1 que thử, 1 pipet hút máu, 1 kim chích máu đầu ngón tay, 1 bông gòn sát khuẩn và 1 lọ đựng dung dịch đệm .Sau đây mình xin
⭐ Bộ xét nghiệm máu phát hiện HIV dễ dàng thực hiện tại nhà, cho kết quả nhanh, có độ nhạy cao trên 99.0%. ⭐ Qui trình thực hiện: Dùng bông gòn vô trùng tẩm
**Bệnh lây truyền qua đường tình dục trong ngành công nghiệp tình dục** liên quan đến vấn đề an toàn và sức khỏe nghề nghiệp trong ngành công nghiệp tình dục đối với các bệnh
**Không phát hiện = Không lây truyền** (K=K, tiếng Anh: Undetectable = Untransmittable, U=U) là một thông điệp trong các chiến dịch kiểm soát HIV/AIDS trên thế giới. Cơ sở của chiến dịch dựa trên
**Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS** (World AIDS Day) là ngày lễ quốc tế được cử hành vào ngày 1 tháng 12 hàng năm, nhằm nâng cao nhận thức về nạn dịch AIDS do
**Desmond Mpilo Tutu** (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1931 - mất ngày 26 tháng 12 năm 2021) là nhà hoạt động người Nam Phi và tổng Giám mục Anh giáo nghỉ hưu, người đã
**Sheila Dinotshe Tlou** là một chuyên gia Botswana về HIV/AIDS và sức khỏe phụ nữ, đồng thời là một nhà giáo dục điều dưỡng. Bà là Bộ trưởng Bộ Y tế từ năm 2004 đến
**Timothy Ray Brown** (11 tháng 3, 196629 tháng 9, 2020) là một người Mỹ được coi là người đầu tiên được chữa khỏi HIV/AIDS. Brown được gọi là "Bệnh nhân Berlin" tại Hội nghị về
**Jeannette Nyiramongi Kagame** (Jeannette Nyiramongi, sinh ngày 10 tháng 8 năm 1962) là vợ của Paul Kagame. Bà trở thành Đệ nhất phu nhân Rwanda khi chồng bà nhậm chức Tổng thống năm 2000. Cặp
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.
1. DUREX INVISIBLE - TÀN HÌNH: Tàn hình trong mọi cuộc chơi, đỉnh cao của thăng hoaThiết kế đặc biệt để tăng tối đa xúc cảm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn cao của Durex.