✨Linh dương đầu bò

Linh dương đầu bò

Linh dương đầu bò là linh dương thuộc chi Connochaetes và là động vật bản địa ở Đông Phi và Nam Phi. Chúng thuộc về họ Bovidae, bộ Artiodactyla, trong đó bao gồm linh dương, trâu, bò, dê, cừu và động vật móng guốc có sừng khác. Chúng bao gồm hai loài: linh dương đầu bò đen (còn gọi là linh dương đầu bò đuôi trắng, C. gnou) và linh dương đầu bò xanh (còn gọi là linh dương đầu bò nâu đốm, C. taurinus).

Báo cáo hóa thạch cho biết hai loài đã tách ra vào khoảng một triệu năm trước, kết quả một loài phía bắc và một loài phía nam. Linh dương đầu bò xanh vẫn sống trong phạm vi ban đầu và thay đổi rất ít từ tổ tiên, trong khi đó linh dương đầu bò đen thay đổi nhiều hơn để thích nghi với môi trường sống đồng cỏ rộng ở phía nam. Cách thức rõ ràng nhất để phân biệt hai loài này là khác biệt về màu sắc lông và hình dạng cặp sừng.

Ở Đông Phi, linh dương đầu bò xanh là động vật bị nhiều loài ăn thịt săn lùng nhất; một số quần thể tiến hành các chuyến di cư hàng năm để tìm đến các bãi cỏ mới, nhưng linh dương đầu bò đen là loài hoàn toàn sống du mục. Tập tính sinh sản ở cả hai loài diễn ra trong khoảng thời gian ngắn vào cuối mùa mưa, con non sớm hoạt động và có thể di chuyển theo đàn, hành vi này cần thiết để đảm bảo sự sống sót của chúng. Tuy nhiên, một số con trở thành mồi ngon cho các động vật ăn thịt lớn, đặc biệt là linh cẩu đốm.

Linh dương đầu bò thường ăn cỏ trên vùng đồng cỏ hòa vào đàn với ngựa vằn, giúp nâng cao nhận biết về sự xuất hiện của các loài thú săn mồi. Chúng cảnh giác với các tín hiệu cảnh báo phát ra từ các động vật khác như khỉ đầu chó. Linh dương đầu bò là động vật sống du mục nhưng chúng cũng cạnh tranh nguồn thức ăn với vật nuôi chăn thả được thuần hóa, đôi khi bị nông dân mô tả là loài truyền bệnh và ký sinh trùng lên gia súc của họ. Một số hoạt động săn bắn bất hợp pháp diễn ra nhưng số lượng của chúng khá ổn định và một số được nuôi trong các công viên quốc gia hoặc trên đất tư nhân. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế liệt kê cả hai loài linh dương thuộc loài ít quan tâm.

Phân chia

Phân chia và tiến hóa

Linh dương đầu bò với danh pháp Connochaetes được xếp vào họ Bovidae và phân họ Alcelaphinae, có họ hàng gần nhất là (Alcelaphus), Linh dương Hirola (Beatragus hunteri) và các loài trong chi Damaliscus như linh dương topi, linh dương Damaliscus lunatus, linh dương mặt trắng và linh dương đồng cỏ Nam Phi.

Những người Hà Lan định cư lần đầu tiên phát hiện ra linh dương đầu bò vào khoảng năm 1700, trên đường họ đến vùng nội địa Nam Phi. Do giống với gia súc hoang dã, họ gọi chúng là "wild ox" ("bò hoang") hoặc "wildebeest" ("linh dương đầu bò"). Linh dương đầu bò xanh đầu tiên được người phương Tây biết đến ở phía bắc Nam Phi một thế kỷ sau đó, vào những năm 1800.

Vào đầu thế kỷ 20, một loài linh dương đầu bò là C. albojubatus đã được xác định ở miền đông châu Phi. Năm 1914, hai phân loài của linh dương đầu bò đã được giới thiệu, đó là Gorgon a. albojubatus ("linh dương râu trắng Athi") và G. a. mearnsi ("linh dương râu trắng Loita"). Tuy nhiên, vào năm 1939, hai phân loài này lại một lần nữa được hợp nhất thành một phân loài duy nhất, Connochaetes taurinus albojubatus. Vào giữa thế kỷ 20, hai phân loài khác đã được công nhận, Gorgon taurinus heckiG. t. albojubatus. trong khi linh dương đầu bò đen thì thuộc chi Connochaetes. Ngày nay, chúng hợp nhất trong chi Connochaetes, được đặt tên linh dương đầu bò đen (C. gnou) và linh dương đầu bò xanh (C. taurinus).

Theo phân tích DNA ty thể, linh dương đầu bò đen dường như đã tách khỏi loài chính trong thời kỳ Trung Pleistocene và trở thành một loài khác biệt khoảng một triệu năm trước. Một tỷ lệ phân kỳ đã được tính toán là khoảng 2%.

Hóa thạch linh dương đầu bò xanh có niên đại từ khoảng 2,5 triệu năm trước là phổ biến và phân bố rộng hơn. Chúng đã được tìm thấy trong các hang động hóa thạch tại Cái nôi của nhân loại ở phía bắc thành phố Johannesburg. Ở những nơi khác ở Nam Phi, hóa thạch của chúng rất phong phú tại các địa điểm như Elandsfontein, Cornelia và Florisbad. Hóa thạch cổ nhất của linh dương đầu bò đen được tìm thấy trong lớp đá trầm tích tại Cornelia ở Nhà nước Tự do Orange có niên đại khoảng 800.000 năm.

Di truyền và giống lai

Số lượng nhiễm sắc thể lưỡng bội ở linh dương đầu bò là 58 chiếc. Nhiễm sắc thể được nghiên cứu ở linh dương đực và linh dương cái. Trong số nhiễm sắc thể của con cái, tất cả ngoại trừ một cặp nhiễm sắc thể submetacentric rất lớn đã được tìm thấy là acrocentric. Việc nghiên cứu kỳ giữa của nhiễm sắc thể ở con đực đã giúp khám phá ra nhiễm sắc thể bán cầu lớn tương tự như ở con cái cả về kích thước lẫn hình thái. Các nhiễm sắc thể khác là acrocentric. Nhiễm sắc thể X là một acrocentric lớn, còn nhiễm sắc thể Y thì nhỏ.

Hai loài linh dương đầu bò được biết là loài lai. Con đực của linh dương đầu bò đen đã được báo cáo là giao phối với con cái của linh dương đầu bò xanh và ngược lại. Sự khác biệt trong hành vi bầy đàn và môi trường sống trong lịch sử đã cách ly sinh sản giữa các loài, nhưng sự lai giống có thể xảy ra khi cả hai loài bị giam trong cùng một khu vực. Kết quả thường thấy là con cái sẽ sinh sản. Một nghiên cứu về động vật lai này tại Khu bảo tồn thiên nhiên đập Spioenkop ở Nam Phi cho thấy nhiều con lai có những đặc điểm bất thường bất lợi liên quan đến răng, sừng và xương khâu của hộp sọ. Một nghiên cứu khác báo cáo sự gia tăng kích thước của con lai so với bố mẹ của nó. Ở một số động vật, phần nhĩ của xương thái dương bị biến dạng cao, và ở những con khác, xương quay và xương trụ hợp nhất với nhau.

Đặc điểm của loài

Cả hai loài linh dương đầu bò là động vật móng guốc và sừng màu nâu xám giống như gia súc. Con đực có kích thước lớn hơn con cái và cả hai đều có thân hình phía trước nặng nề hơn so với phần thân sau. Chúng có mõm rộng, mũi Roman, bờm và đuôi xù xì. và nặng khoảng 180 kg. Ở con cái, linh dương đầu bò xanh có chiều cao 135 cm và nặng 180 kg trong khi con linh dương đầu bò đen cao 108 cm và nặng 155 kg. Sừng của linh dương đầu bò xanh nhô ra một bên, cong dần xuống trước khi cong ngược về phía hộp sọ, trong khi sừng của linh dương đầu bò đen cong về phía trước, hướng xuống dưới trước khi cong lên trên. Linh dương đầu bò xanh có màu xanh nhạt trên toàn thân với các sọc có một màu xám đen. Linh dương đầu bò đen có lông màu nâu, bờm có màu kem đến màu đen và đuôi màu kem. Linh dương đầu bò xanh sống phân bố trong nhiều môi trường sống khác nhau, bao gồm cả rừng và đồng cỏ, trong khi linh dương đầu bò đen có xu hướng chỉ sống ở khu vực đồng cỏ mở. Sữa của con cái thuộc loài linh dương đầu bò đen có chứa protein cao hơn, chất béo thấp hơn và hàm lượng đường trong sữa thấp hơn sữa của linh dương đầu bò xanh. Linh dương đầu bò có thể sống hơn 40 năm, mặc dù tuổi thọ trung bình của chúng là khoảng 20 năm.

Phân phối và môi trường sống

Linh dương đầu bò sống ở vùng đồng bằng và rừng thưa mở rộng ở nhiều vùng châu Phi thuộc phía nam Sahara. Linh dương đầu bò đen có nguồn gốc từ vùng cực nam của lục địa.

Linh dương đầu bò xanh có nguồn gốc từ miền đông và miền nam châu Phi. Phạm vi của loài bao gồm Kenya, Tanzania, Botswana, Zambia, Zimbabwe, Mozambique, Nam Phi, Swaziland và Angola. Loài không còn được tìm thấy ở Malawi nhưng đã được phục hồi lại thành công ở Namibia. Linh dương đầu bò xanh chủ yếu được tìm thấy ở vùng đồng bằng cỏ thấp giáp với thảo nguyên savana phủ đầy bụi rậm, phát triển mạnh ở những khu vực không quá ẩm ướt cũng không quá khô. Chúng có thể được tìm thấy trong nhiều môi trường sống khác nhau từ khu vực đầy bụi rậm đến rừng thưa ngập nước. Ở Đông Phi, linh dương đầu bò xanh là loài bị hầu hết thú săn theo đuổi nhất, cả về số lượng và sinh khối. Đó là một đặc điểm đáng chú ý của Vườn quốc gia Serengeti ở Tanzania, Khu bảo tồn quốc gia Maasai Mara ở Kenya và Công viên quốc gia đồng bằng Liuwa ở Zambia. Con cái có diện tích riêng khoảng 250 mẫu Anh . Con đực độc thân không có lãnh thổ sống lang thang tùy ý và dường như không có bất kỳ hạn chế nào về nơi chúng lang thang đến.

Linh dương đầu bò xanh có cả tập tính di cư và ít di cư. Ở Ngorongoro, hầu hết trong số chúng đều ít di cư và con đực duy trì một mạng lưới lãnh thổ quanh năm, mặc dù việc sinh sản là theo mùa tự nhiên. Con cái và con non tạo thành nhóm khoảng 10 cá thể hoặc kết hợp với nhau thành những đàn lớn hơn, và những con đực không có lãnh thổ tạo thành nhóm độc thân. Trong các hệ sinh thái Serengeti và Tarangire, quần thể linh dương đầu bò chủ yếu là di cư, với các đàn bao gồm cả đực và cái thường xuyên di chuyển, nhưng cũng tồn tại các quần thể nhỏ cư trú. Trong mùa giao phối, con đực có thể đánh dấu lãnh thổ tạm thời trong vài giờ hoặc một ngày, hoặc lâu hơn, và cố gắng tập hợp một vài con cái để giao phối với nó, nhưng ngay sau đó chúng phải di chuyển, thường di chuyển để thiết lập một số lãnh thổ tạm thời khác.

Hằng năm, một số quần thể linh dương đầu bò xanh ở Đông Phi có một cuộc di cư đường dài, dường như được tính đúng thời điểm trùng với mùa mưa và sự phát triển của cỏ. Thời gian di cư của chúng trong cả mùa mưa và mùa khô có thể thay đổi đáng kể (theo tháng) từ năm này sang năm khác. Vào cuối mùa mưa (tháng 5 hoặc tháng 6 ở Đông Phi), linh dương đầu bò di cư khỏi các khu vực khô hạn vào mùa khô khi thiếu nước. Khi mùa mưa bắt đầu trở lại (vài tháng sau), chúng nhanh chóng quay trở lại khu vực cũ. Các yếu tố được xem xét ảnh hưởng đến di cư là do sự phong phú về thức ăn, nguồn nước bề mặt hiện có, động vật ăn thịt và hàm lượng phosphor trong cỏ. Phosphor là một nguyên tố quan trọng đối với mọi dạng sống, đặc biệt là đối với linh dương đầu bò cái đang cho con bú. Do đó, trong mùa mưa linh dương đầu bò chọn các khu vực chăn thả có hàm lượng phosphor đặc biệt cao.

Các bức ảnh chụp từ trên không đã cho thấy một mức độ tổ chức trong sự di chuyển của đàn linh dương đầu bò mà không thể thấy rõ đối với từng con vật riêng lẻ; một ví dụ, nhóm di cư ở mặt trước đàn tụ tập gợn sóng, điều này cho thấy một số mức độ ra quyết định của nhóm riêng đang diễn ra. Nhiều bộ phim tài liệu kể về linh dương đầu bò băng qua sông, nhiều con đã bị cá sấu ăn thịt hoặc chết đuối khi đang nỗ lực này vượt sông. Mặc dù có vẻ điên rồ, nhưng nghiên cứu gần đây đã cho thấy đàn linh dương đầu bò sở hữu thứ được gọi là "trí thông minh bầy đàn", nhờ đó chúng khám phá và vượt qua chướng ngại vật một cách có hệ thống.

Sinh thái học

Động vật ăn thịt

Những loài thú săn mồi chủ yếu ăn linh dương đầu bò bao gồm sư tử, linh cẩu, chó hoang châu Phi, báo gêpa, báo hoa mai và cá sấu, chúng dường như ưa thích linh dương đầu bò hơn những con mồi khác. Chiến thuật phòng thủ chính là phòng thủ bầy đàn, trong đó những con non được bảo vệ bởi những con già hơn, lớn hơn, trong lúc bầy đàn chạy theo nhóm. Thông thường, thú săn mồi cố gắng cô lập một con non hoặc trong tình trạng bị bệnh và tấn công mà không cần phải lo lắng về đàn của linh dương. Linh dương đầu bò đã phát triển thêm các hành vi hợp tác phức tạp, chẳng hạn như các con thay phiên nhau ngủ trong khi những con khác đứng bảo vệ chống lại cuộc tấn công ban đêm của những con thú săn mồi. Các cuộc di cư của linh dương đầu bò được theo sát bởi kền kền, vì xác linh dương đầu bò là nguồn thức ăn quan trọng cho loài ăn xác thối này. Kền kền tiêu thụ khoảng 70% xác linh dương đầu bò. Sự sụt giảm số lượng linh dương đầu bò di cư cũng có tác động tiêu cực đến bầy kền kền. Trong hệ sinh thái Serengeti ở Tanzania, linh dương đầu bò có thể giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc di cư của các loài ăn cỏ khác có thân hình nhỏ hơn, chẳng hạn như linh dương Thomson (Eudorcas thomsonii), chúng ăn loại cỏ mới mọc lại trên các bãi do linh dương đầu bò ăn trước.

Tương tác với loài khác

Ngựa vằn và linh dương đầu bò thuộc cùng nhóm trong môi trường thảo nguyên savana thưa, với khả năng bị săn mồi cao. Chiến lược phân nhóm giữa chúng với nhau làm giảm nguy cơ bị săn mồi vì nhóm lớn hơn làm giảm cơ hội săn bắt nhắm vào mỗi cá thể và giảm tầm nhìn hơn ở những khu vực rộng rãi đối với thú săn mồi. Sự hiện diện theo mùa của hàng nghìn con linh dương đầu bò di cư làm giảm sự săn mồi của sư tử đối với hươu cao cổ con, dẫn đến khả năng sống sót của hươu cao cổ nhiều hơn.

Linh dương đầu bò cũng có thể lắng nghe tiếng kêu báo động của các loài khác, và bằng cách đó chúng có thể giảm nguy cơ bị săn. Một nghiên cứu cho thấy, cùng với các loài động vật móng guốc khác, linh dương đầu bò phản ứng mạnh mẽ hơn với tiếng kêu báo động của khỉ đầu chó so với tiếng kêu khi tranh giành của khỉ đầu chó, mặc dù cả hai loại tiếng kêu này đều có dạng thức, biên độ và thời lượng tương tự nhau. Tiếng kêu báo động là phản ứng của khỉ đầu chó với sư tử, và tiếng kêu tranh giành được ghi nhận khi xảy ra tranh chấp giữa hai con đực. Linh dương đầu bò cạnh tranh với động vật nuôi thuần hóa để giành đồng cỏ và đôi khi bị nông dân đổ lỗi trong việc truyền bệnh và ký sinh trùng cho gia súc của họ.

Nhân giống và sinh sản

thumb|Video linh dương đầu bò cho con non bú Linh dương đầu bò không hình thành liên kết cặp đôi vĩnh viễn và cặp đôi trong suốt mùa kết đôi hay giao phối, con đực lập vùng lãnh thổ tạm thời và cố gắng thu hút con cái đến với chúng. Vùng lãnh thổ nhỏ có diện tích khoảng , có tới 300 vùng lãnh thổ trên . Con đực bảo vệ lãnh thổ khỏi những con đực khác trong khi tranh giành những con cái sắp động dục. Con đực sử dụng tiếng gầm gừ và hành vi đặc biệt để lôi kéo con cái vào lãnh thổ của chúng. Linh dương đầu bò thường sinh sản vào cuối mùa mưa khi chúng được ăn uống đầy đủ và ở trạng thái sung sức nhất.

Chu kỳ động dục là khoảng 23 ngày và thời gian mang thai kéo dài 250-260 ngày. Con non nặng khoảng khi mới sinh và tập tễnh đứng dậy trong vòng vài phút, có thể di chuyển cùng đàn ngay sau đó, Động vật ăn thịt chủ yếu đối với con non là linh cẩu đốm. Thời kỳ cao điểm sinh đẻ kéo dài 2-3 tuần, trong các đàn nhỏ và các nhóm biệt lập tỷ lệ chết của con non có thể lên tới 50%. Tuy nhiên, trong các đàn lớn hơn, hoặc các nhóm nhỏ sống gần các đàn lớn, tỷ lệ tử vong dưới 20%.

Các nhóm linh dương cái và con non sống trong các khu vực nhỏ do con đực thiết lập. Khi đàn linh dương đầu bò kết hợp với nhau, tỷ lệ con cái trên con đực cao hơn vì con cái chọn di chuyển đến những khu vực có số lượng con đực ít hơn.

Bị đe doạ và bảo tồn

Di cư qua các vùng đất như một quá trình sinh học đòi hỏi những cảnh quan tự nhiên rộng lớn và nối liền, nhưng ngày càng khó duy trì đặc biệt là về lâu dài, khi nhu cầu khai thác tự nhiên của con người tăng lên. Mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến từ các rào cản đối với việc di cư, chẳng hạn như hàng rào và đường xá. Một ví dụ nổi bật hơn về hậu quả của việc xây hàng rào đối với những vùng đất là nơi di cư đến của linh dương, chính quyền Botswana đã đặt hàng nghìn km hàng rào trên khắp Kalahari để ngăn linh dương đầu bò tiếp cận các hồ nước và bãi chăn thả, dẫn đến cái chết của hàng chục nghìn cá thể linh dương, làm giảm quần thể linh dương đầu bò xuống dưới 10% so với quy mô số lượng trước đây của chúng. Săn bắt trái phép là mối quan tâm lớn đối với việc bảo tồn ở nhiều khu vực, cùng với mối đe dọa tự nhiên do động vật săn mồi chính gây ra (bao gồm sư tử, báo, chó săn châu Phi, báo gêpa và linh cẩu). Khi linh dương đầu bò đen và linh dương đầu xanh có chung một phạm vi, cả hai có thể lai tạp, và đây được coi là mối đe dọa tiềm tàng đối với linh dương đầu bò đen.

Sử dụng và tương tác với con người

Linh dương đầu bò cung cấp một số sản phẩm động vật hữu ích. Da dùng làm đồ thuộc da chất lượng tốt và thịt thô, khô và khá cứng. Phần đuôi mềm mượt của linh dương đầu bò đen được sử dụng để làm cây đuổi ruồi. Tuy nhiên, linh dương đầu bò cũng có thể có tác động tiêu cực đến con người. Các cá thể hoang dã có thể là đối thủ cạnh tranh của vật nuôi, và có thể truyền và gây ra dịch bệnh cho các động vật, đặc biệt là gia súc nuôi. Chúng cũng có thể lây lan bọ ve, giun phổi, sán dây, ruồi và sán paramphistome.

Thư viện ảnh

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Linh dương đầu bò đen** (tiếng Anh: **black wildebeest** hay **white-tailed gnu** (_linh dương đầu bò đuôi trắng_) (danh pháp hai phần: _Connochaetes gnou_) là một trong hai loài **_linh dương đầu bò_** (_wildebeest_) có
**Linh dương đầu bò xanh** (tiếng Anh: **blue wildebeest**; danh pháp hai phần: _Connochaetes taurinus_), cũng được gọi là _linh dương đầu bò thông thường_ (common wildebeest), _linh dương đầu bò râu trắng_ (white-bearded wildebeest)
**Linh dương đầu bò** là linh dương thuộc chi **_Connochaetes_** và là động vật bản địa ở Đông Phi và Nam Phi. Chúng thuộc về họ Bovidae, bộ Artiodactyla, trong đó bao gồm linh dương,
nhỏ|phải|Một con linh dương **Phân họ Linh dương** (Danh pháp khoa học: **_Antilopinae_**) là một phân họ của Họ Trâu bò (Bovidae) bao gồm các loài có tên là linh dương cũng như một số
**Linh dương sừng móc** hay còn gọi là **Linh dương Topi** (Danh pháp khoa học: _Damaliscus korrigum jimela_, Matschie, 1892) là một phân loài linh dương sừng bẻ hay linh dương sừng ngoặt của loài
**Linh dương sừng thẳng tai rìa** (danh pháp ba phần: _Oryx beisa callotis_) là một phân loài của loài linh dương sừng thẳng Đông Phi. Đây là một trong những loài động vật sa mạc,
nhỏ|phải|Một con linh dương châu Phi nhỏ|phải|Linh dương châu Phi nhỏ|Minh họa năm 1904 của Ernst Haeckel về một số loài linh dương. **Linh dương** là một nhóm động vật ăn cỏ thuộc bộ Guốc
**Linh dương đồng lầy** hay **Linh dương bãi bồi** (Danh pháp khoa học: _Reduncinae_) là một phân họ của các loài linh dương hay còn gọi là **phân họ Vi linh** bao gồm gồm tám
**Linh dương Senegal** hay **Senegal hartebeest** (Danh pháp khoa học:_Damaliscus korrigum korrigum_) hay còn gọi là **Korrigum** hoặc **Tiang** là một phân loài của loài linh dương Damaliscus korrigum cũng là một loài linh dương
**Linh dương sừng mác** (tiếng Anh: _Scimitar oryx_ hoặc _Scimitar-horned oryx_, hay còn có tên _Sahara oryx_), danh pháp hai phần: _Oryx dammah_, là một loài linh dương thuộc chi _Oryx_ hiện nay đã tuyệt
**Linh dương Saiga**, tên khoa học **_Saiga tatarica_**, là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla, được Linnaeus mô tả năm 1766.. ## Phân bố và môi trường sống Linh dương
**Linh dương Grant** (tên khoa học: **_Nanger granti_**) là một phân loài trong chi Linh dương Gazelle thuộc loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Grant mô tả năm
nhỏ|Linh dương vằn Kudu **Linh dương vằn Kudu** hay còn gọi là **linh dương Kudu** là những loài linh dương thuộc chi Tragelaphus. Chi này hiện nay có hai loài gồm: linh dương Kudu nhỏ
**Linh dương đen lớn** hay còn gọi đơn giản là **linh dương đen** (Danh pháp khoa học: _Hippotragus niger variani_) là một phân loài của loài Linh dương đen Đông Phi phân bố ở trung
**Linh dương sừng móc miền Tây** hay **linh dương sừng móc lớn** (Danh pháp khoa học: _Alcelaphus buselaphus major_) là một phân loài của loài alcelaphus buselaphus, chúng là một loài linh dương bản địa
**Linh dương Thomson**, tên khoa học **_Eudorcas thomsonii_**, là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla, được Günther mô tả năm 1884. Một số nhà khoa học coi linh dương Thomson
**Linh dương hươu**, danh pháp khoa học: _Gazella_, là tên gọi chung cho nhiều loài linh dương thuộc chi _Gazella_, họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Tên gọi gazelle bắt nguồn tiếng Ả Rập, tên gọi غزال
**Xe chiến đấu bộ binh** (tiếng Nga: Боевая машина пехоты - BMP; tiếng Anh: _Infantry fighting vehicle_ - IFV), cũng được biết đến với tên gọi **Xe chiến đấu bộ binh cơ giới**, là một
**Linh dương Tây Tạng** hay **chiru** (danh pháp khoa học: _Pantholops hodgsonii_) (, phát âm ; , Hán-Việt: _Tạng Linh dương_) là một loài động vật cỡ vừa bản địa cao nguyên Tây Tạng. Tổng
**Linh dương Sonoran** (Danh pháp khoa học: _Antilocapra americana sonoriensis_) là một phân loài của loài linh dương sừng nhánh và là một phân loài bị đe dọa, linh dương này là loài đặc hữu
**Linh dương sừng nhánh México** (Danh pháp khoa học: **_Antilocapra americana mexicana_**) là một phân loài của loài linh dương sừng nhánh, phân bố tới cả México và Hoa Kỳ. ## Đặc điểm chung ###
**Linh dương sừng nhánh Baja California** hay **Linh dương sừng nhánh bán đảo** (Danh pháp khoa học: _Antilocapra americana peninsularis_) là một phân loài cực kỳ nguy cấp của loài linh dương sừng nhánh Antilocapra
**Linh dương hoẵng Ruwenzori** (Danh pháp khoa học: _Cephalophus rubidus_) là một loài linh dương trong chi linh dương hoẳng. Chúng là một linh dương chắc nịch nhưng nhỏ chỉ được tìm thấy ở dãy
**Linh dương mặt đen** (Danh pháp khoa học: **_Aepyceros melampus petersi_**) là các loài linh dương trong phân loài bản địa linh dương Impala phân bố từ Angola tới Namibia. Nó không phải là khó
**Linh dương hoẵng Harvey** (Danh pháp khoa học: _Cephalophus harveyi_) là một trong 19 phân loài của loài linh dương hoẳng được tìm thấy ở Tanzania và rải rác thông qua Kenya, miền nam Somalia,
**Linh dương hoẵng chân trắng** (Danh pháp khoa học: **_Cephalophus crusalbum_**) là một loài linh dương hoẵng (Cephalophinae) có kích thước trung bình thuộc họ Trâu bò (Bovidae). Nó được mô tả là phân loài
**Linh dương Gerenuk** _(Litocranius walleri)_ là một loài linh dương cổ dài được tìm thấy ở vùng Sừng châu Phi và những vùng khô hạn hơn của Đông Phi. Là thành viên duy nhất của
Khủng hoảng về động vật là một trong bộ 8 sách Truyện tranh tri thức khoa học, cuốn sách với những nét vẽ minh họa sinh động sẽ đưa chúng ta tìm hiểu cụ thể
**Linh dương đồng cỏ phương nam** hay **Linh dương đồng cỏ** (danh pháp khoa học: _Kobus leche_) là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Gray mô tả
**_Đương đầu với thử thách 4_** (tựa gốc: **_Live Free or Die Hard_**; tựa đề ngoài Bắc Mỹ: **_Die Hard 4.0_**) là một bộ phim điện ảnh hành động của Mỹ năm 2007, đồng thời
thumb|Sáu loài họ Trâu bò (theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái): [[linh dương sừng xoắn châu Phi, bò nhà, linh dương núi đá Ả Rập, linh dương Impala, linh dương đầu
**Họ Linh cẩu** (**Hyaenidae**) (từ tiếng Hy Lạp cổ đại _ὕiatedνα_, hýaina) gồm các động vật có vú ăn thịt Dạng mèo. Chỉ 4 loài **linh cẩu** còn sinh tồn (trong 3 chi). Đây là
**Linh dương lam** (trong tiếng Anh có tên là **bluebuck** hoặc **blue antelope**, danh pháp hai phần: _Hippotragus leucophaeus_), thỉnh thoảng cũng được gọi là **blaubok**, là 1 loài linh dương đã tuyệt chủng. Đây
**Linh dương sừng xoắn châu Phi** (danh pháp hai phần: **_Addax nasomaculatus_**), còn được gọi là _linh dương trắng_ (_white antelope_) là một loài linh dương thuộc chi _Addax_, sinh sống tại hoang mạc Sahara
**Antilopini** là một tông linh dương trong phân họ Linh dương gồm các loài Linh dương cỡ trung bình và nhỏ trong nhóm các loài linh dương Gazelle và Linh dương lùn châu Phi, gồm
**Linh ngưu vàng** (Danh pháp khoa học: _Budorcas taxicolor bedfordi_) là một phân loài của loài linh ngưu với đặc trưng là cơ thể được bao phủ một lớp lông vàng rực. Đây là phân
**Sơn dương Đông Dương** (Danh pháp khoa học: _Capricornis milneedwardsii maritimus_) hay còn gọi đơn giản là **sơn dương** hay **linh dương**, **dê rừng** là loài động vật thuộc họ Trâu bò, thuộc Bộ ngón
**Linh ngưu Bhutan** (Danh pháp khoa học: _Budorcas taxicolor whitei_) là một phân loài của loài Linh ngưu phân bố ở Bhutan, được chọn là biểu tượng quốc gia của nước Bhutan. Loài này có
**Linh dương sừng móc Bubal** hay còn gọi đơn giản là **Linh dương Bubal** hay **Bubal** (Danh pháp khoa học: _Alcelaphus buselaphus bubal_) là một phân loài đã tuyệt chủng lần đầu tiên được mô
**Linh dương Heuglin** (danh pháp khoa học: _Eudorcas tilonura_), còn được gọi là **linh dương Eritrea**, là một loài linh dương được tìm thấy tại phía đông sông Nile ở Eritrea, Ethiopia và Sudan. Các
**Linh dương sừng thẳng Ả Rập** (_Oryx leucoryx_) là một loài động vật guốc chẵn thuộc chi _Oryx_, họ Trâu bò. Loài linh dương này có một cái "bướu" khá kỳ lạ trên lưng, cặp
**Cuộc quyết đấu giữa hổ và sư tử** hay là sự so sánh hổ (cọp) và sư tử ai mạnh hơn ai, kẻ nào mới thực sự là vua của muông thú luôn là một
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
**Linh dương Lelwel** hay còn gọi là **linh dương Jackson** (Danh pháp khoa học: _Alcelaphus buselaphus lelwel_) là một phân loài của loài linh dương Alcelaphus buselaphus. Chúng là phân loài linh dương có nguồn
**Linh dương mặt trắng** (trong tiếng Anh gọi là _blesbok_ hay _blesbuck_, danh pháp khoa học: **_Damaliscus pygargus phillipsi_**) là một phân loài linh dương đặc hữu Nam Phi. Nó có mặt và trán màu
**Linh dương đồng cỏ Cape** (tên khoa học **_Kobus leche venterae_**) là một phân loài của loài linh dương đồng cỏ Kobus leche. Chúng là một phân loài nay đã tuyệt chủng của đa dạng
**Linh dương Swayne** (Danh pháp khoa học: _Alcelaphus buselaphus swaynei_) là một phân loài của loài linh dương Alcelaphus buselaphus. Đây là một linh dương bản địa đang bị đe dọa của Ethiopia. Hai trong
**Linh dương Koke** hay còn gọi là **linh dương kongoni** (Danh pháp khoa học: _Alcelaphus buselaphus cokii_) là một phân loài của loài Alcelaphus buselaphus. Đây là một loài linh dương bản địa linh dương
nhỏ|phải|Tông thể một con Linh ngưu Mishmi **Linh ngưu Mishmi** (Danh pháp khoa học: _Budorcas taxicolor taxicolor_) là một phân loài của loài Linh ngưu. Đây là một phân loài có nguy cơ tuyệt chủng
236x236px|nhỏ|Huy hiệu của Uganda **Linh dương đồng lầy Ugandan** (Danh pháp khoa học: _Kobus kob thomasi_) là một phân loài của loài linh dương Kob. Chúng là một loại linh dương được tìm thấy ở