✨Linh dương đầu bò xanh
Linh dương đầu bò xanh (tiếng Anh: blue wildebeest; danh pháp hai phần: Connochaetes taurinus), cũng được gọi là linh dương đầu bò thông thường (common wildebeest), linh dương đầu bò râu trắng (white-bearded wildebeest) hoặc linh dương đầu bò nâu đốm (brindled gnu), là một loài linh dương lớn và là một trong hai loài linh dương đầu bò (wildebeest). Loài này được xếp vào chi Connochaetes, họ Bovidae và có mối quan hệ chặt chẽ với linh dương đầu bò đen. Linh dương đầu bò xanh có 5 phân loài. Loài này có bờ vai rộng vạm vỡ, diện mạo nặng mặt tiền, cùng chiếc mõm đặc biệt chắc khỏe. Lông linh dương non khi sinh ra có màu vàng nâu, bắt đầu chuyển màu trưởng thành khi đạt 2 tháng tuổi. Màu sắc lớp lông khi trưởng thành có phạm vi từ màu đá phiến sẫm hoặc xám xanh đến xám nhạt hay thậm chí nâu xám. Cả hai giới sở hữu cặp sừng rộng và cong.
Linh dương đầu bò xanh là loài ăn cỏ, chủ yếu tìm ăn cỏ thấp. Đàn linh dương di chuyển theo nhóm rời rạc, chúng chạy nhanh và khả năng cảnh giác cực kỳ cao. Mùa giao phối bắt đầu vào cuối mùa mưa và một con non đơn lẻ được sinh ra sau thai kỳ khoảng 8 tháng rưỡi. Con non vẫn còn ở với mẹ trong 8 tháng, sau thời gian đó nó tham gia vào đàn linh dương non. Linh dương đầu bò xanh sinh sống trên đồng bằng cỏ thấp giáp ranh trảng cỏ có cây keo bao phủ thành bụi rậm tại miền nam và đông châu Phi, phát triển mạnh tại khu vực không quá ẩm ướt cũng không quá khô cằn. Mỗi năm, ba quần thể linh dương đầu bò xanh tại Đông Phi tham gia hành trình di cư đường dài, thời gian ước tính trùng với lượng mưa hằng năm và lượng cỏ mọc trên đồng bằng cỏ thấp. Chúng tìm đến nơi có nguồn cỏ giàu dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tiết sữa và cho con non phát triển.
Linh dương đầu bò xanh là loài bản địa tại Angola, Botswana, Eswatini, Kenya, Mozambique, Nam Phi, Tanzania, Zambia và Zimbabwe. Ngày nay, loài này đã tuyệt chủng ở Malawi, nhưng được tái nhập thành công tại Namibia. Phạm vi phân bố của linh dương đầu bò xanh có giới hạn phía nam đến sông Orange, còn giới hạn phía tây giáp hồ Victoria và núi Kenya. Loài linh dương này khá phổ biến, đang được du nhập đến nhiều trang trại tư nhân, khu dự trữ và khu bảo tồn. Do đó, IUCN xếp linh dương đầu bò xanh là loài ít quan tâm. Số lượng ước tính được khoảng 1,5 triệu và xu hướng quần thể ổn định.
Phân loại và đặt tên
Linh dương đầu bò xanh được nhà tự nhiên học người Anh William John Burchell mô tả lần đầu vào năm 1823. Ông đặt danh pháp hai phần là Connochaetes taurinus. Loài này được xếp vào chi Connochaetes cùng với linh dương đầu bò đen (C. gnou), là động vật nhai lại có móng guốc chẵn. Danh pháp taurinus cũng khởi nguồn theo tiếng Hy Lạp, tauros, có nghĩa là bò đực hoặc bò thiến. Tên thường gọi "linh dương đầu bò xanh" (blue wildebeest) dựa theo bộ lông óng ánh xanh bạc dễ nhận ra,
Mặc dù linh dương đầu bò xanh hiện được xếp vào cùng một chi với linh dương đầu bò đen, nhưng trước đây chúng được xếp vào một chi riêng biệt, Gorgon. Nghiên cứu về nhiễm sắc thể nguyên phân và DNA ty thể được thực hiện nhằm tìm hiểu thêm về mối quan hệ tiến hóa giữa hai loài, phát hiện rằng cả hai có quan hệ phát sinh loài chặt chẽ và đã tách ra khoảng 1 triệu năm trước đây.
Phân loài
C. taurinus có 5 phân loài:
- C. t. taurinus (Burchell, 1823)ː linh dương đầu bò xanh, linh dương đầu bò thông thường hoặc linh dương đầu bò nâu đốm) sinh sống ở miền nam châu Phi. Phạm vi kéo dài từ Namibia và Nam Phi đến Mozambique (phía bắc sông Orange) và từ phía tây nam Zambia (phía nam sông Zambezi) đến miền nam Angola. *C. t. johnstoni* (Sclater, 1896)ː linh dương đầu bò Nyassaland, sinh sống từ Mozambique (phía bắc sông Zambezi) đến đông-trung Tanzania. Phân loài này đã tuyệt chủng tại Malawi. C. t. albojubatus (Thomas, 1912)ː linh dương đầu bò râu trắng miền đông, sinh sống tại thung lũng Gregory (phía nam xích đạo). Phạm vi kéo dài từ phía bắc Tanzania đến miền trung Kenya. C. t. mearnsi (Heller, 1913)ː linh dương đầu bò râu trắng miền tây), phân bố tại miền bắc Tanzania và miền nam Kenya. Phạm vi kéo dài từ phía tây thung lũng Gregory đến vịnh Speke tại hồ Victoria. C. t. cooksoni** (Blaine, 1914)ː linh dương đầu bò Cookson, giới hạn đến thung lũng Luangwa ở Zambia. Đôi khi, phân loài này có thể đi lang thang vào vùng cao nguyên miền trung Malawi. Ngoài ra, diện mạo đặc biệt của một dạng miền tây, sống trải dài từ Kalahari đến miền trung Zambia, được đề xuất phân loài mattosi (Blaine, 1825) có thể tỏ ra phân biệt với phân loài taurinus. Dạng miền tây có thể được nhận ra ngay cả ở khoảng cách xa nhờ bờm dựng đứng, râu dài và đốm nâu rất nhỏ.
Lai giống
Linh dương đầu bò xanh được biết đến là có thể lai ghép với linh dương đầu bò đen. Sự khác biệt về hành vi xã hội lẫn môi trường sống đã ngăn cản giao phối giữa hai loài trong lịch sử. Tuy nhiên, điều này vẫn có thể xảy ra khi cả hai loài được giới hạn cùng khu vực, con lai thường tốt giống. Một nghiên cứu về vật lai tại khu dự trữ sinh quyển đập nước Spioenkop ở Nam Phi phát hiện nhiều bất thường bẩm sinh liên quan đến răng, sừng và xương khớp nối trong của hộp sọ. Một nghiên cứu khác báo cáo sự gia tăng kích thước con lai so với một trong hai bố mẹ của nó. Ở một số con vật lai, xương khoang thính giác bị biến dạng cao và những bộ phận khác như xương quay, xương trụ được hợp nhất.
Di truyền và tiến hóa
Số lượng nhiễm sắc thể lưỡng bội của linh dương đầu bò xanh là 58. Nhiễm sắc thể được nghiên cứu ở cả con đực và con cái. Ở linh dương cái, tất cả nhiễm sắc thể, ngoại trừ một cặp hạ khuynh tâm khá lớn tìm được đều là thể nhiễm sắc dạng que. Kỳ giữa nghiên cứu được trong nhiễm sắc thể linh dương đực, cũng tìm ra nhiễm sắc thể hạ khuynh tâm khá lớn, tương tự như linh dương cái cả về kích thước lẫn hình thái, số còn lại là nhiễm sắc dạng que. Nhiễm sắc thể X có dạng que lớn trong khi nhiễm sắc thể Y khá nhỏ.
Linh dương đầu bò xanh dường như tiến hóa khoảng 2,5 triệu năm trước. Linh dương đầu bò đen được cho là tách ra từ loài này để trở thành một loài riêng biệt khoảng 1 triệu năm trước, vào khoảng giai đoạn giữa đến cuối thế Pleistocene. Bằng chứng hóa thạch cho biết linh dương đầu bò xanh từng khá phổ biến tại cái nôi của nhân loại trong quá khứ. Ngoài Đông Phi, hóa thạch còn được phát hiện ở Elandsfontein, Cornelia và Florisbad. Linh dương đực nặng từ , linh dương cái nặng từ . Điểm nổi bật ở chiếc đuôi dài, đen, khoảng . Tuổi thọ trung bình đạt khoảng 20 năm trong tự nhiên và 21 năm trong môi trường nuôi nhốt. Cá thể già nhất từng được nuôi nhốt sống khoảng 24,3 năm. do đó chúng còn có tên "brindled gnu" (linh dương đầu bò nâu đốm). Lông bờm của cả hai giới đều dài, cứng, dày, đen tuyền, trùng màu đuôi và gương mặt.
Sinh thái và hành vi
thumb|left|Đàn linh dương di chuyển theo số lượng lớn thumb|Đàn linh dương cùng ngựa vằn đang gặm cỏ
Linh dương đầu bò xanh chủ yếu hoạt động vào buổi sáng và chiều tối. Thời giờ nóng nhất trong ngày được dành nghỉ ngơi. Là loài vật cực kỳ nhanh nhẹn và cảnh giác, có thể chạy với tốc độ lên đến , vẫy đuôi hay hất đầu.
Linh dương đực đánh dấu ranh giới lãnh thổ bằng đống phân, chất tiết ra từ tuyến mùi hương và một số hành vi nhất định. Ngôn ngữ cơ thể được con đực chiếm lãnh thổ sử dụng gồm có đứng lên theo tư thế thẳng đứng, dậm chân lên đất, húc sừng, đại tiện thường xuyên, lăn và gầm rống, phát ra âm thanh "ga-noo". Khi tranh giành lãnh thổ, con đực gào rống inh ỏi, dậm đất, húc sừng bạo liệt và thực hiện các hành động gây hấn khác.
Chế độ ăn uống
Linh dương đầu bò xanh là loài loài ăn cỏ, chủ yếu ăn cỏ thấp thường mọc trên đất có ánh sáng và đất kiềm tìm được trên trảng cỏ và đồng bằng. Bất cứ khi nào có thể, linh dương đầu bò thích uống nước hai lần mỗi ngày. Mặc dù vậy, chúng vẫn có thể tồn tại trên hoang mạc Kalahari khô cằn, tại đây chúng hút đủ nước từ quả dưa, rễ hay củ trữ nước.
Sinh sản
thumb|Linh dương non khoảng vài tháng tuổi tại công viên quốc gia Kruger, Nam Phi trái|nhỏ|Hai con linh dương đầu bò xanh đực đấu sừng để giành ưu thế Linh dương đực thành thục khoảng 2 năm tuổi trong khi linh dương cái có thể thụ thai khi đạt 16 tháng tuổi nếu được nuôi dưỡng đầy đủ. Trong cuộc tán tỉnh, linh dương đực thường tiểu tiện, căng cơ nhẹ và sớm cố gắng gắn kết với con cái. Một con cái chấp nhận sẽ vẫy đuôi sang một bên, đứng yên khi giao phối diễn ra. Giao phối có thể lặp lại nhiều lần, có thể diễn ra hai lần hoặc nhiều lần trong vòng một phút. Con đực không ăn cũng không nghỉ khi một con cái hiện diện trong lãnh thổ của mình. Trong thời gian này, linh dương cái gần gũi với con đực, thường dụi đầu vào thân và ngửi dương vật con đực. Khi vào mùa, một con cái có thể viếng thăm vài vùng lãnh thổ và giao phối với vài con đực khác nhau. Mặc dù nguyên nhân tử vong thay đổi theo từng năm, nhưng trong một đợt hạn hán ở Botswana, linh dương cái già và con non đều có khả năng tử vong cao nhất. Vào một dịp khác, ước tính rằng 47% ca tử vong do bệnh tật, 37% do bị ăn thịt, còn lại do kết quả tai nạn. Nhìn chung, ấu trùng Gedoelstica và Oestrus ký sinh ở khoang mũi và khoang hô hấp của linh dương đầu bò xanh, đôi khi còn di chuyển lên não.
Phân bố và môi trường sống
Linh dương đầu bò xanh có nguồn gốc từ Kenya, Tanzania, Botswana, Zambia, Zimbabwe, Mozambique, Nam Phi, Eswatini và Angola. Hiện nay, loài đã tuyệt chủng tại Malawi nhưng đã được tái nhập thành công vào Namibia. Quá trình di chuyển và tiếp cận nguồn cỏ xanh giàu dinh dưỡng để sinh sản cho phép các quần thể linh dương đầu bò di cư phát triển với số lượng lớn hơn nhiều so với quần thể cư trú. Nhiều quần thể di cư đường dài đã tồn tại cách đây 100 năm, nhưng hiện tại, tất cả ngoại trừ ba cuộc di cư (Serengeti, Tarangire và Kafue) đã bị gián đoạn, cắt đứt và mất tích.
Vào khoảng tháng 6, khi mùa khô bắt đầu, nắng nóng khiến đồng cỏ Serengeti tại Tanzania trở nên khô héo, khiến linh dương bắt đầu di cư. Chuyến di cư diễn ra từ tháng 7 – 10 hàng năm, nhưng cao điểm vào tháng 8, ước tính có khoảng 1,5 triệu linh dương di cư vượt sông. Điểm đến của chúng là những đồng cỏ xanh tốt ở khu bảo tồn quốc gia Maasai Mara tại Kenya. Đôi khi hành trình di cư này được gọi là "cuộc di cư vòng tròn" vì chúng di chuyển quanh vùng Serengeti theo mùa mưa nhằm tìm kiếm đồng cỏ xanh tươi với quãng đường di chuyển lên đến gần 3.000 km. Trong hành trình này, chúng phải vượt qua dòng sông Mara đầy rẫy cá sấu sông Nile chờ sẵn. Khoảng 250.000 con linh dương chết mỗi năm trong các cuộc di cư này.
Đe dọa và bảo tồn
Linh dương đầu bò xanh là con mồi cho sư tử, báo hoa, chó hoang châu Phi, linh cẩu và cá sấu sông Nile. Động vật ăn thịt là nguyên nhân chính gây tử vong. Chúng cũng dễ nhiễm dịch bệnh, dẫn đến suy giảm số lượng. Tương tự, đã xảy ra sự sụt giảm nghiêm trọng gần đây trong cuộc di cư của linh dương đầu bò Tarangire.
Tổng số linh dương đầu bò xanh ước tính được khoảng 1.550.000. Xu hướng số lượng tổng thể ổn định, số lượng tại Vườn quốc gia Serengeti (Tanzania) tăng lên khoảng 1.300.000. Phạm vi mật độ quần thể từ 0,15/km² tại công viên quốc gia Hwange và Etosha đến 35/km² tại công viên quốc gia miệng núi lửa Ngorongoro và Serengeti, nơi chúng phong phú nhất. Linh dương đầu bò xanh cũng đã được đưa vào một số trang trại thú săn tư nhân, khu dự trữ, khu vực bảo vệ. Nhờ đó, IUCN xếp linh dương đầu bò xanh là loài ít quan tâm. Tuy nhiên, số lượng linh dương đầu bò râu trắng miền đông (C. t. albojubatus) đã suy giảm số lượng đáng kể đến mức hiện nay chỉ còn 6.000 đến 8.000 cá thể, điều này gây ra một số mối lo ngại.
Tuy nhiên, linh dương đầu bò xanh cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến con người. Chúng có thể cạnh tranh với vật nuôi nhà nhiều thứ như cỏ xanh, nước và thậm chí có thể truyền bệnh hiểm nghèo như dịch tả trâu bò cho bò nhà, lan truyền dịch bệnh giữa các con vật. Linh dương cũng có thể lây lan bọ ve, giun phổi, sán dây, ruồi hay ký sinh giun dẹp.
Một phiến đá khắc cổ xưa trên đá bảng miêu tả một con vật rất giống với linh dương đầu bò xanh được khai quật. Phiến đá có niên đại khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, được tìm thấy tại Hierakonopolis (Nekhen), nơi đã từng là thủ đô tôn giáo - chính trị của Thượng Ai Cập vào thời điểm bấy giờ. Đây có thể là bằng chứng cho biết loài động vật này từng sinh sống tại Bắc Phi và có liên hệ với người Ai Cập cổ đại.