Karl Friedrich von Steinmetz (1796-1877) là một quý tộc và tướng lĩnh quân sự nổi tiếng của Phổ. Ông được mệnh danh là "Sư tử của Nachod", được phong hàm Thống chế (Generalfeldmarschall) của Đức.
Cuộc đời binh nghiệp
Ông sinh ngày 27 tháng 12 năm 1796 tại Eisenach. Ngay từ năm 10 tuổi, ông đã được gửi đến một trường quân sự. Khả năng quân sự của mình đã khiến cho ông được lệnh tới kinh đô Berlin vào năm 16 tuổi, và nhập ngũ quân đoàn của tướng Yorck – đội quân chư hầu Phổ của Napoléon I trong cuộc tấn công nước Nga của Pháp năm 1812. Sau thất bại của Pháp tại Nga, tướng Yorck đã xé bỏ liên minh với người Pháp, và cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức bùng nổ. Steinmetz đã tham gia tích cực trong cuộc chiến Mặc dù bị thương nặng ở Königswarth, ông vẫn tham chiến trên lưng ngựa ở trận Bautzen. Ông cũng tiếp tục tham gia trong các trận đánh khác tại Đức và Pháp, góp phần đánh chiếm Paris năm 1814. Trong thời gian hòa bình sau những cuộc chiến tranh của Napoléon, Steinmetz chú tâm vào việc nghiên cứu quân sự và được thăng quân hàm.. Trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất chống Đan Mạch năm 1848, ông tham gia chỉ huy trong quân đội Phổ, và được tặng thưởng Huân chương Quân công (Pour le Mérite). Ông cũng tham chiến tại Baden năm 1850, và được bổ nhiệm làm sĩ quan chỉ huy tại Cassel. Trong khi thắng lợi tại Nachod đã mở đường cho đại thắng của quân đội Phổ ở trận Königgrätz, chiến thắng vang dội tại Skalitz trước các lực lượng đông đảo hơn của Áo đã khiến cho những người lính dưới quyền Steinmetz gọi ông là "Sư tử của Skalitz". cá tính của ông có thể được nhìn thấy qua việc khi chỉ huy chiến dịch, ông đội chiếc nón lưỡi trai theo kiểu cuộc chiến 1813 – 1815, khác với thông lệ.
Vốn luôn coi mình là người noi theo tinh thần của Thống chế Blücher nổi danh, ông tỏ ra không thích ứng với sự thâm sâu của Moltke và điều này đem đến rắc rối cho ông trong Chiến tranh Pháp-Phổ.
Được phong hàm Thống chế và cuối đời
Vào tháng 4 năm 1871, ông từ chức theo yêu cầu của mình, nhưng người Phổ không quên lãng những cống hiến của ông đối với họ, khi mà thắng lợi làm suy giảm sự thù địch đối với ông, và ông được phong hàm Thống chế, với lương hưu là 2.000 thaler. Ông cũng trở thành một thành viên của hạ nghị viện. Trên tinh thần của sự trung thành vốn đã theo suốt sự nghiệp của ông, ông không hề biện minh cho các hành vi của mình năm 1870. Cuộc sống của ông khi về hưu tĩnh lặng và hạnh phúc, và ông vẫn khỏe mạnh cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Steinmetz qua đời tại Bad Landeck vào ngày 2 tháng 8 năm 1877. Trung đoàn bắn súng trường số 37 của quân đội Đế quốc Đức lấy tên ông như một phần của danh hiệu của trung đoàn này.
Xem phần phụ lục của Militär Wochenblatt (1877 và 1878).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl Friedrich von Steinmetz** (1796-1877) là một quý tộc và tướng lĩnh quân sự nổi tiếng của Phổ. Ông được mệnh danh là "Sư tử của Nachod", được phong hàm Thống chế (_Generalfeldmarschall_) của Đức.
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Eduard Kuno von der Goltz** (còn được viết là _Cuno_) (2 tháng 2 năm 1817 tại Wilhelmstal – 29 tháng 10 năm 1897 tại Eisbergen ở Minden) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Christof Gottlieb Albert Freiherr von Barnekow** (2 tháng 8 năm 1809 tại Hohenwalde, Đông Phổ – 24 tháng 5 năm 1895 tại Naumburg (Saale)) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp
**Georg Graf von der Gröben**(-Neudörfchen) (16 tháng 6 năm 1817 tại Schrengen – 25 tháng 1 năm 1894 tại điền trang Neudörfchen, quận Marienwerder) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến
**Adolf Albert Ferdinand Karl Friedrich von Bonin** (11 tháng 11 năm 1803 tại Heeren – 16 tháng 4 băm 1872 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng
**Binh đoàn số 1** () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó
Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl **vây hãm** 180.000 quân Pháp do Thống chế François
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Sư đoàn 1** (Tiếng Đức: _1. Division_) còn được gọi là **Sư đoàn 1 Bộ binh** (Tiếng Đức: _1. Infanterie-Division_) là một đơn vị cấp sư đoàn của Phổ và sau đó là Lục quân
**Trận Nachod** là một trận giao tranh trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1866 giữa Quân đoàn V thuộc Binh đoàn thứ hai của Quân đội Phổ và
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
Ngày **27 tháng 12** là ngày thứ 361 (362 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 4 ngày trong năm. ## Sự kiện *537 – Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I và Thượng phụ
Ngày **25 tháng 12** là ngày thứ 359 (360 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 6 ngày trong năm. ## Sự kiện *36 – Sau khi Công Tôn Thuật tử chiến vào hôm trước,
**Hugo Ludwig von Below** (27 tháng 10 năm 1824 tại Neumarkt tại Schlesien – 21 tháng 7 năm 1905 tại Oberstdorf) là một Trung tướng quân đội Phổ, đồng thời là Công dân Danh dự
**Trận Borny-Colombey**, còn gọi là **Trận Borny**, **Trận Colombey-Nouilly**, giữa đội tiền quân do tướng Eduard Kuno von der Goltz thống lĩnh thuộc binh đoàn thứ nhất của quân đội Phổ, được sự hỗ trợ
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Trận Spicheren** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Forbach**), còn được đề cập với cái tên **Trận Spicheren-Forbach**, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
**Philip Melanchthon** (**Philippus Melanchthon**) (; 16 tháng 2 năm 1497 – 19 tháng 4 năm 1560), tên khai sinh **Philipp Schwartzerdt** (), là một nhà cải cách cùng với Martin Luther, nhà thần học hệ
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Hoàng thân Adalbert của Phổ** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1811 tại Berlin – mất ngày 6 tháng 6 năm 1873 tại Karlsbad), tên khai sinh là **Heinrich Wilhelm Adalbert** là một hoàng tử