✨I-121 (lớp tàu ngầm)

I-121 (lớp tàu ngầm)

là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là ; là tên rút gọn từ .

Thiết kế và chế tạo

Bốn chiếc thuộc lớp tàu ngầm I-121I-21, I-22, I-23I-24, được đổi tên tương ứng thành I-121, I-122 I-123I-124 vào ngày 1 tháng 6, 1938 — là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn , một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.

Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất , có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng của Nhật Bản thay cho cỡ trên U-125. So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn ở tốc độ khi nổi và ở tốc độ khi lặn. Tuy nhiên I-125 chậm hơn cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến khi so với của U-125.

Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã đặt hàng sáu chiếc lớp I-121, trong đó bốn chiếc được hoàn tất và hai chiếc bị hủy bỏ trước khi đặt lườn, tất cả đều được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Kawasaki Shipbuilding Corporation tại Kobe. Vào giữa năm 1940, cả bốn chiếc đầu được cải biến thành tàu ngầm chở dầu. Vẫn giữ lại khả năng rải mìn và mang theo ngư lôi, chúng có khả năng vận chuyển 15 tấn xăng máy bay để tái nạp nhiên liệu cho các thủy phi cơ, cho phép các máy bay này kéo dài tầm xa hoạt động trong các phi vụ trinh sát và ném bom, bằng cách gặp gỡ các tàu ngầm này tại cảng hay vũng biển để tiếp thêm nhiên liệu.

Phục vụ

Cả bốn chiếc trong lớp đều đã phục vụ trên tuyến đầu trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, khi chúng hoạt động tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc, và tại Thái Bình Dương trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong giai đoạn sau này, chúng đã rải thủy lôi và tuần tra tìm diệt tàu bè tại Đông Á và ngoài khơi Australia trong những tuần đầu của cuộc xung đột, khi I-124 bị đánh chìm. Những chiếc còn lại tiếp tục hỗ trợ trong trận Midway và Chiến dịch Guadalcanal, nơi I-123 bị mất. Sau khi phục vụ vận chuyển tiếp liệu trong Chiến dịch New Guinea, hai chiếc còn lại, được xem là đã lạc hậu, được rút khỏi hoạt động tác chiến vào tháng 9, 1943 để làm nhiệm vụ huấn luyện tại vùng biển nhà, nơi I-122 bị đánh chìm trong những tuần lễ cuối cùng của chiến tranh. I-121 đầu hàng khi Thế Chiến II kết thúc và bị đánh đắm vào năm 1946.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
nhỏ|Tàu ngầm HMS Astute, loại tàu ngầm hạt nhân tấn công tiên tiến. **Tàu ngầm hạt nhân** (tiếng Anh: Nuclear submarine) là một loại tàu ngầm vận hành nhờ năng lượng sinh ra từ phản
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-24_**: * _I-24_ (1927) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1927, đổi tên thành _I-124_
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-22_**: * _I-22_ (1926) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-122_
**USS _Montgomery_ (DD–121)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _James E. Kyes_ (DD-787)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Greer_ (DD–145)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**HMCS _Skeena_ (D59/I59)** là một tàu khu trục thuộc lớp _River_ của Hải quân Hoàng gia Canada đã phục vụ từ năm 1931 đến năm 1944. Nó tương tự như những chiếc tàu khu trục
**USS _Fiske_ (DD-842/DDR-842)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**HMCS _Saguenay_ (D79/I79)** là một tàu khu trục thuộc lớp _River_ của Hải quân Hoàng gia Canada đã phục vụ từ năm 1931 đến năm 1945. Nó tương tự như những chiếc tàu khu trục
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Thảm họa đập Brumadinho** xảy ra vào ngày 25 tháng 1 năm 2019, khi một đập chất thải tại mỏ quặng sắt ở Brumadinho, Minas Gerais, Brazil, đã vỡ. Con đập thuộc sở hữu của
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**S-300** là một loạt các hệ thống Tên lửa đất đối không tầm xa Nga do Tổng công ty khoa học công nghiệp Almaz sản xuất dựa trên phiên bản S-300P đầu tiên. Hệ thống
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Tupolev Tu-160**, biệt danh "Thiên Nga Trắng" là một máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, siêu thanh với thiết kế cánh cụp-cánh xòe, được thiết kế bởi Liên bang Xô viết. Nó là