✨USS James E. Kyes (DD-787)
USS James E. Kyes (DD-787) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Trung tá Hải quân James E. Kyes (1906–1943), người đã tử trận do cứu một thủy thủ dưới quyền, khi tàu khu trục do ông chỉ huy bị đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-boat Đức tại Đại Tây Dương, và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. Hoàn tất khi chiến tranh đã kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Nó ngừng hoạt động và chuyển cho Đài Loan năm 1973, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Chien Yang (DD-12/DDG-912) cho đến năm 2004. James E. Kyes được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, rồi thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong Chiến tranh Việt Nam.
Thiết kế và chế tạo
James E. Kyes được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Todd Pacific Shipyards, Inc. ở Seattle, Washington vào ngày 27 tháng 12 năm 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 8 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà James E. Kyes, vợ góa Trung tá Kyes, và nhập biên chế vào ngày 8 tháng 2 năm 1946 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân K. E. Shook.
Lịch sử hoạt động
1946 - 1950
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy dọc theo vùng bờ Tây, James E. Kyes khởi hành từ Seattle vào ngày 12 tháng 6 năm 1946 để đi Trân Châu Cảng, nơi nó đón nhận binh lính để vận chuyển trở về Hoa Kỳ. Về đến San Diego, California vào ngày 12 tháng 7, nó hoạt động tại khu vực dọc bờ biển California cho đến khi lên đường vào ngày 9 tháng 11 để hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương. Nó gia nhập Đệ Thất hạm đội tại Thượng Hải vào ngày 30 tháng 11, và hoạt động dọc theo bờ biển Trung Quốc để hỗ trợ cho những hoạt động của phe Quốc dân Đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch chống lại phe Cộng sản nhằm kiểm soát lục địa.
James E. Kyes bắt đầu lượt hoạt động thứ mười sáu tại khu vực Tây Thái Bình Dương vào ngày 19 tháng 8, 1967. Từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 10, nó được phối thuộc cùng Đơn vị Đặc nhiệm 70.8.9 để hỗ trợ hải pháo tại khu vực tác chiến của Quân đoàn I tại Nam Việt Nam và phía Nam khu phi quân sự. Từ ngày 29 tháng 10 đến ngày 5 tháng 11, nó được điều sang Đơn vị Đặc nhiệm 77.1.1 tiến hành Chiến dịch Sea Dragon, hỗ trợ cho các tàu tuần dương và trong giai đoạn này và đã giúp phá hủy các cầu đường giao thông và vị trí pháo bờ biển đối phương nhằm ngăn chặn việc cung cấp vũ khí và tiếp liệu từ Bắc Việt Nam xuống Nam Việt Nam. Vào ngày 30 tháng 10, chiếc tàu khu trục bị một khẩu đội pháo bờ biển đối phương nhắm bắn; nó né tránh được 27 quả đạn pháo mà không bị hư hại, và cuối cùng hỏa lực của đã tiêu diệt khẩu đội đối phương. Từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 11, 1967, con tàu một lần nữa được điều sang Đơn vị Đặc nhiệm 70.8.9 để hoạt động ngoài khơi vùng trách nhiệm của Quân đoàn I. Hỏa lực hải pháo hỗ trợ của con tàu được đánh giá rất hiệu quả, và khi rời khu vực vào ngày 11 tháng 11, chiếc tàu khu trục đã tiêu phí gần 3.000 quả đạn pháo 5 inch xuống các mục tiêu ở cả Bắc và Nam Việt Nam, giúp phá hủy 124 công trình quân sự, 300 mét hầm hào và công sự, sáu thuyền buồm cùng một số vị trí pháo bờ biển đối phương. Nó lên đường quay trở về nhà sau đó.
Cho đến tháng 1, 1968, James E. Kyes đã hoạt động ngoài biển trong vùng chiến sự liên tục gần năm tháng, ngoại trừ những dịp hiếm hoi cặp cảng để tiếp liệu thực phẩm và đạn dược. Vì vậy thủy thủ đoàn con tàu được hưởng một kỳ nghỉ phép đặc biệt tại Australia, và nó khởi hành đi xuống phía Nam vào ngày 20 tháng 1. Tuy nhiên sự kiện chiếc tàu tình báo bị phía Bắc Triều Tiên bắt giữ vào ngày 23 tháng 1, đã khiến cho kế hoạch bị thay đổi. Chiếc tàu khu trục được huy động tham gia cùng Đệ Thất hạm đội để giải cứu Pueblo, và nó mở hết tốc độ hướng đến vùng biển Nhật Bản. Nó gặp gỡ các đội tàu sân bay và cùng lực lượng tuần dương và khu trục tháp tùng hộ tống. James E. Kyes được bổ nhiệm làm soái hạm các tàu khu trục của lực lượng giải cứu, và trong nhiều tuần lễ tiếp theo đã chờ đợi ngoài khơi cảng Wonsan trong hoàn cảnh thời tiết lạnh giá, trong khi việc thương lượng vẫn đang tiếp diễn.
James E. Kyes lên đường vào ngày 29 tháng 3, 1969 cho lượt phục vụ thứ 17 tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Đi đến khu vực phụ cận Vũng Tàu vào sáng sớm ngày 19 tháng 4, con tàu bước vào tình trạng tác chiến trong phần lớn thời gian ở lại vùng biển Việt Nam. Sau khi hỗ trợ hải pháo cho cuộc chiến của lực lượng Australia tại một địa điểm cách Vũng Tàu về hướng Đông Đông Bắc, nó đi ngược dòng sông Sài Gòn để thực hiện một loạt các nhiệm vụ bắn hải pháo hỗ trợ cho trận chiến trên bộ.
James E. Kyes đi sang vịnh Manila, Philippines vào ngày 22 tháng 5, 1969, nơi nó tham gia cuộc Tập trận Sea Spirit phối hợp giữa thành viên các nước trong Khối SEATO; Tổng thống Philippine Ferdinand Marcos đã khai mạc cuộc tập trận trong một buổi lễ tại Manila vào ngày 26 tháng 5. Chiếc tàu khu trục đã hoạt động phối hợp với tàu frigate Anh và hoạt động cùng các đơn vị của Đội chống ngầm 1, Hải đội Khu trục 23 cùng nhiều đơn vị khác, bao gồm tàu sân bay Australia ; nó đã hoạt động hộ tống, chống ngầm và phòng không trong suốt bốn ngày của cuộc tập trận. Sau khi xảy ra tai nạn va chạm giữa Melbourne và tàu khu trục Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 6, khiến Frank E. Evans bị cắt làm đôi và phần mũi bị đắm, James E. Kyes đã nỗ lực tìm kiếm và cứu vớt những người sống sót.
James E. Kyes quay trở về căn cứ vịnh Subic vào ngày 6 tháng 6 để bảo trì và tiếp liệu, rồi lên đường vào ngày 17 tháng 6 để quay trở lại vùng chiến sự, hướng đến khu vực tác chiến của Quân đoàn III. Đến ngày 23 tháng 6, nó bắn phá các vị trí của lực lượng đối phương tại địa điểm cách Quy Nhơn về phía Bắc, phá hủy nhiều công sự và một kho đạn. Từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 6, nó thực hiện nhiều nhiệm vụ bắn phá bờ biển khác nhau, và vào ngày 27 tháng 6 đã bắn hỏa lực hỗ trợ cho trận chiến trên bộ của Trung đoàn 47 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh Nam Việt Nam, tại vị trí về phía Tây Bắc Tuy Hòa. Trong các ngày 28 và 29 tháng 6, con tàu bắn pháo hỗ trợ cho trận chiến trên bộ của Sư đoàn Bộ binh 9 Hàn Quốc; và tại vị trí ngoài khơi Phan Thiết vào ngày 1 tháng 7, nó hỗ trợ cho Trung đoàn 506 Bộ binh.
Sau khi xảy ra sự kiện phía Bắc Triều Tiên bắn rơi một máy bay do thám Lockheed EC-121 trong không phận quốc tế, James E. Kyes được huy động đi sang vùng biển Triều Tiên vào tháng 10, 1969. Cuối cùng con tàu lên đường quay trở về nhà, về đến Long Beach vào ngày 21 tháng 11, 1969. Năm 1970 được đánh dấu là năm đầu tiên kể từ năm 1946, khi con tàu không được biệt phái hàng năm sang khu vực Tây Thái Bình Dương; thay vào đó nó hoạt động huấn luyện thực hành thường lệ dọc theo vùng bờ Tây, cộng với một giai đoạn cải tạo lườn tàu từ tháng 3 đến tháng 6. Chiếc tàu khu trục hoàn thành việc huấn luyện ôn tập và vượt qua chuẩn nhận hỗ trợ hải pháo, sẵn sàng cho lượt biệt phái tiếp theo.
Sau khi tham gia nhiều đợt tập trận tại khu vực giữa Long Beach và Trân Châu Cảng vào đầu năm 1971, James E. Kyes lên đường vào ngày 19 tháng 3 để đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương. Đi đến vùng biển Việt Nam và vịnh Bắc Bộ vào ngày 3 tháng 4, nó phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay trước khi chuyển sang hoạt động hộ tống chống tàu ngầm cho tàu sân bay . Đến ngày 11 tháng 5, nó quay trở lại vùng vịnh Bắc Bộ để canh phòng máy bay cho tàu sân bay . Con tàu đi sang vùng biển Nhật Bản để tập trận cùng các tàu chiến thuộc Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản, rồi một lần nữa phục vụ canh phòng máy bay cho Ticonderoga. Tuy nhiên nhiệm vụ mới này chỉ kéo dài trong hai ngày, khi nó cùng Hải đội Khu trục 23 được cho tách ra vào ngày 17 tháng 6 để quay trở về Long Beach, có ghé qua Adak, Alaska để tiếp nhiên liệu. Nó về đến vào ngày 5 tháng 7, rồi cùng toàn thể Hải đội Khu trục 23 chuyển cảng nhà từ Long Beach đến San Diego, California vào ngày 1 tháng 9, khi Hải quân tiến hành tái tổ chức.
James E. Kyes khởi hành từ San Diego vào ngày 5 tháng 6, 1972 cho lượt biệt phái hoạt động cuối cùng sang khu vực Tây Thái Bình Dương. Nó gặp gỡ vào ngày 6 tháng 6, và đã hộ tống chiếc tàu sân bay đi đến Bắc Bộ vào ngày 22 tháng 6. Nó bắt đầu các hoạt động bắn phá bờ biển Bắc Việt Nam và hỗ trợ hải pháo dọc bờ biển Nam Việt Nam từ ngày 7 tháng 7. Tổng cộng con tàu đã trải qua ba tháng hoạt động tại vùng chiến sự Việt Nam trong năm 1972, chỉ bị ngắt quãng bởi những chuyến ngắn đến vịnh Subic, Cao Hùng và Hong Kong để nghỉ ngơi, bảo trì và tiếp liệu.
Vào ngày 26 tháng 12, 1972, James E. Kyes cùng các tàu khu trục , và tàu frigate khởi hành từ vịnh Subic để quay trở về San Diego, và đã hoạt động thực hành huấn luyện trên đường đi. Nó về đến San Diego, California vào ngày 13 tháng 1, 1973. Nó được cho xuất biên chế đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 31 tháng 3, 1973.
ROCS Chien Yang (DDG-912)
thumb|ROCS Chien Yang (DDG-912) đang phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc. Con tàu được chuyển cho Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) vào ngày 18 tháng 4, 1973, và phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS _Chien Yang_ (), được xếp lại lớp như một tàu khu trục tên lửa điều khiển với ký hiệu lườn DDG-912. Chien Yang được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 12, 2004 tại Căn cứ Hải quân Tả Doanh, Cao Hùng, Đài Loan.
Phần thưởng
James E. Kyes được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, rồi thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong Chiến tranh Việt Nam.