✨Hoàng Phùng Cơ

Hoàng Phùng Cơ

Hoàng Phùng Cơ (chữ Hán: 黄馮基; ?-1787), còn gọi là quận Thạc (từ chữ Thạc quận công 碩郡公), là tướng thời Lê Mạt trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia phò tá và dự cuộc chiến khôi phục chính quyền Lê-Trịnh cuối thế kỷ 18 nhưng cuối cùng thất bại.

Theo quận He

Hoàng Phùng Cơ người huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam.

Phùng Cơ xuất thân làm cướp, theo lực lượng nổi dậy của quận He Nguyễn Hữu Cầu chống triều đình nhà Lê trung hưng thời Cảnh Hưng. Sau khi thủ hạ của Hữu Cầu là Thông bị tử trận, Hoàng Phùng Cơ là tướng đắc lực của quận He.

Tháng 3 năm 1746, Nguyễn Hữu Cầu bị Phạm Đình Trọng đánh bại nhiều lần, thế lực suy yếu, bèn xin đầu hàng. Trịnh Doanh thuận cho, hạ lệnh Hữu Cầu cùng Hoàng Phùng Cơ đều được phép rửa hết tội trước, ban cho chức tước. Nhưng tướng Phạm Đình Trọng có thâm thù kiên quyết ngăn trở việc quận He về hàng. Vì vậy Hữu Cầu và Hoàng Phùng Cơ mang quân chạy trốn.

Năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu bị bắt và bị tử hình. Lực lượng nổi dậy của quận He tan tã. Hoàng Phùng Cơ quy hàng triều đình, được chúa Trịnh Doanh dùng làm tướng.

Cùng quận Việp đánh Phú Xuân

Được Trịnh Doanh tin cậy, Hoàng Phùng Cơ lập nhiều công lao, được phong làm trấn thủ Tuyên Quang, sau đó sang làm trấn thủ Sơn Tây.

Năm 1774, ông theo quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đi đánh Thuận Hóa. Quân Trịnh thắng lợi liên tiếp. Hoàng Phùng Cơ cùng Hoàng Đình Thể thường đi đầu, lập được nhiều công trận. Khi quân Trịnh tiến đến gần Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần bèn sai Tôn Thất Tiệp làm thống binh quân Nguyễn, cùng quản lãnh cai đội Đặng đem quân chống cự. Hoàng Phùng Cơ và Nguyễn Tiến Khoan đi tiên phong đánh bại Tôn Thất Hiệp, cánh quân của cai đội Đặng tự tan vỡ. Quận Việp tiến đến chiếm đóng đồn Bái Đáp.

Thấy các đạo quân liên tiếp thất bại, Nguyễn Phúc Thuần sai Nguyễn Văn Chính điều các cánh quân thủy bộ. Quận Việp bí mật sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Nghĩa Phát theo đường núi sang qua ghềnh Trầm và nghềnh Ma. Tướng giữ đồn phía Nguyễn là Tường Quan và Doãn Đức bị thua và tử trận. Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Nghĩa Phát bắc cầu phao qua sông, thừa lúc quân Nguyễn không phòng bị, đánh dồn hai mặt kẹp lại. Nguyễn Văn Chính cố sức đánh, bị chết trận, các cánh quân Nguyễn đều tan vỡ.

Ngày Đinh mùi - tức là 28 tháng 12 năm Giáp Thìn, dương lịch là 30 tháng 1 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Phú Xuân.

Chống Tây Sơn ở Cẩm Sa

Nhân lúc quân Nguyễn ở Thuận Hóa bị quân Trịnh đánh bại dồn dập, thủ lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần bị đánh kẹp hai mặt, theo đường biển bỏ chạy vào Gia Định. Quân Trịnh và quân Tây Sơn cùng tiến, gặp nhau và đụng độ tại Quảng Nam.

Ngày 9 tháng 3 năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc đánh phá đồn Trung Sơn mới về tay quân Tây Sơn và chiếm được đồn này. Ngày 22 tháng 3, quân Trịnh tiến đến đóng đồn ở Cẩm Lệ. Nguyễn Nhạc và Tập Đình mang quân lội qua suối Trà Khê, xông vào hỗn chiến với quân Trịnh. Quân Trịnh chưa kịp bày súng nạp đạn, phải mang gươm giáo ra giao chiến. Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ cùng hơn 10 tướng thúc voi vào trận, khí thế rất hăng. Nguyễn Nhạc và Tập Đình không chống nổi, phải men theo khe rút chạy.

Ngày 24 tháng 3, tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể tiến đến Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc cùng Tập Đình và Lý Tài chia làm 5 đường đón đánh. Ban đầu, quân Tây Sơn chiếm ưu thế, giết được Vũ Quế bá bên quân Trịnh. Giữa lúc cam go, Hoàng Phùng Cơ cùng Hoàng Đình Thể đem kỵ binh nhanh nhẹn vào phá trận. Hoàng Ngũ Phúc nhân thấy quân Tập Đình yếu thế bèn lùa quân ồ ạt tiến đánh. Quân Tây Sơn bị voi giày hoặc bị giết khá nhiều, tan vỡ bỏ chạy, cùng 8 người con dẫn quân lính bản bộ đến. Trịnh Khải giúp cho Hoàng Phùng Cơ 5000 lạng bạc mộ được hơn 1000 quân lính cũ. Ông dàn quân đóng ở hồ Vạn Xuân cùng chúa Trịnh phòng thủ cho kinh thành.

Sáng ngày 21 tháng 7, quân Tây Sơn tiến đến. Cánh quân Trịnh phòng thủ Thúy Ái nhanh chóng bị tiêu diệt. Quân Tây Sơn tiến tới hồ Vạn Xuân. Toán quân của Hoàng Phùng Cơ không kịp dàn thành hàng ngũ, bỏ chạy tan vỡ tứ tung. Thuộc tướng là Mai Thế Pháp bị quân Tây Sơn vây sát, nhảy xuống sông; chỉ còn một mình Phùng Cơ cùng 8 người con dẫn vài chục thủ hạ cố sức chiến đấu. Thủ hạ và 6 người con đều bị tử trận, Hoàng Phùng Cơ cùng 2 người con cướp lấy đường mà chạy về Sơn Tây.

Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại. Chúa Trịnh Khải tự sát. Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long.

Tranh giành ở Bắc Hà

Quân Tây Sơn lấy danh nghĩa tôn phò nhà Lê để diệt chúa Trịnh. Sau khi diệt họ Trịnh, quân Tây Sơn rút về nam. Nguyễn Huệ để lại Nguyễn Hữu Chỉnh trấn thủ Nghệ An.

Lê Hiển Tông qua đời, cháu nội là Lê Chiêu Thống lên thay. Các tướng cũ của chúa Trịnh như Đinh Tích Nhưỡng, Dương Trọng Tế mưu lập lại chúa Trịnh, bèn đón Trịnh Bồng về, ép vua Lê phong vương. Chiêu Thống bất đắc dĩ phải nghe theo.

Đinh Tích Nhưỡng lúc đầu trót nói với Lê Chiêu Thống rằng sẽ để quyền hành cho vua Lê định đoạt, nhưng bản ý muốn giữ nếp cũ cho Trịnh Bồng điều hành việc triều chính như các đời chúa Trịnh trước. Đúng lúc đó Hoàng Phùng Cơ hưởng ứng Đinh Tích Nhưỡng, bèn mang quân từ Sơn Tây về Thăng Long. Nhận lời Tích Nhưỡng, ông cùng các quan văn võ vào cung vua Lê tâu xin giao quyền cho chúa Trịnh. Lê Chiêu Thống không bằng lòng, nhưng vì cô thế nên bất đắc dĩ phải đồng ý. Chúa Trịnh Bồng bèn phong ông làm làm Trung quân tả đô đốc chưởng phủ sự, Đinh Tích Nhưỡng làm đông quân hữu đô đốc thự phủ sự.

Lê Chiêu Thống bị mất quyền về tay họ Trịnh như trước rất tức giận, thành ra tranh chấp quyền hành với Trịnh Bồng, tự mình sai các hoàng thân mộ quân bảo vệ hoàng cung. Các quan lại người ngả theo vua Lê, người ngả theo chúa Trịnh.

Tháng 11 năm 1786, Trịnh Bồng theo lời Dương Trọng Tế, bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ và Bùi Nhuận đem quân vây cung vua Lê, ra hẹn ai theo vua Lê sẽ giết chết. Hoàng Phùng cơ vốn không ăn cánh với Dương Trọng Tế, và vì có nhà riêng trong kinh thành sợ xảy ra biến sẽ tai tiếng, bèn mang quân bản bộ ngăn trở Mậu Nễ. Mậu Nễ phải rút lui. Lê Chiêu Thống thấy tình hình căng thẳng quá bèn ngầm thân viết thư để triệu Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra cứu.

Nguyễn Hữu Chỉnh liên tiếp thắng trận. Các tướng do Trịnh Bồng phái đi đều bị đánh bại. Dương Trọng Tế bỏ chạy lên Kinh Bắc, Đinh Tích Nhưỡng chạy đi Hải Dương lấy cớ mộ quân. Hoàng Phùng Cơ cô thế, thấy Nguyễn Hữu Chỉnh mạnh mẽ liệu không chống nổi, bèn rút về Sơn Tây. Trịnh Bồng bại trận bỏ trốn mất tích.

Bại trận tự sát

Nguyễn Hữu Chỉnh có công cứu vua Lê, ngày càng cậy quyền. Các tướng theo chúa Trịnh cũ căm ghét Chỉnh, muốn nhân danh giúp vua Lê để trả thù.

Tháng 5 năm 1787, Dương Trọng Tế bại trận bị Chỉnh bắt và bị giết.

Tháng 8 năm 1787, Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây cũng muốn chống lại Hữu Chỉnh, bèn truyền hịch đi các lộ Quảng Oai, Quốc Oai, nêu rõ danh nghĩa dấy quân để giết Hữu Chỉnh.

Hữu Chỉnh sai tướng là Nguyễn Duật đón đánh ở xã Đại Phùng, còn mình thì quản đốc đại quân đi tiếp chiến. Hoàng Phùng Cơ giao chiến với Nguyễn Duật. Duật thua trận, kéo quân rút lui. Con Phùng Cơ là Hoàng Gia khuyên ông nên nhân đà thắng lợi, ruổi thẳng đến kinh thành; nhưng ông không nghe theo, cho rằng việc bắt Hữu Chỉnh rất dễ dàng.

Nguyễn Duật chạy được nửa đường, ngoái nhìn không thấy quân Phùng Cơ đuổi theo, liền thu quân, dàn thành trận thế quay trở lại đánh. Quân Phùng Cơ đang ăn, không kịp trở tay, đã tan chạy. Hoàng Phùng Cơ cùng con trai trơ trọi trên mình voi, cố sức chiến đấu, bị quân của Duật bao vây khắp bốn mặt. Đúng lúc đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại mang quân ập đến, thúc quân Thiết đột bắn tập trung vào Hoàng Phùng Cơ.

Ông bị ngã từ trên bành voi nhào xuống, bị quân Hữu Chỉnh bắt và điệu về kinh đô. Nguyễn Hữu Chỉnh sai luận tội ông phải xử chém. Khi sắp đem chém, Lê Chiêu Thống cho rằng năm trước khi cung vua bị Nguyễn Mậu Nễ vây đánh, Hoàng Phùng Cơ đã có công đánh lui Mậu Nễ, vì vậy nên cho Phùng Cơ được xử bằng thuốc độc. Hoàng Phùng Cơ bèn uống thuốc độc tự vẫn.

Thi hài ông được đưa về Sơn Tây an táng, gia quyến không bị tội. Dân chúng trấn Sơn Tây vẫn kính trọng ông.

Không rõ năm đó Hoàng Phùng Cơ bao nhiêu tuổi. Tính từ khi ông theo quận He chống triều đình đến khi chết tại Thăng Long, Hoàng Phùng Cơ hoạt động trên 40 năm từ thời Cảnh Hưng đến thời Chiêu Thống.

Gia quyến và thuộc hạ

Hoàng Phùng Cơ có sau người con trai, bốn người chết trong trận chống quân Tây Sơn ở hồ Thủy Ái. Hai người con trai còn lại, một người là Hồ Phùng Vạn sau theo phò Chiêu Thống Đế, một người khác là Hoàng Phùng Gia sau theo Tây Sơn làm chức Đô đốc.

Người con rể của ông là Trương Đài sau khởi binh chống lại Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, bị giết chết.

Thuộc tướng của ông là Nguyễn Bá Xuyến bị thương trong trận đánh với quân Lê Duật sau này theo hàng quân Nguyễn Phúc Ánh chống lại Tây Sơn. Sau này Nguyễn Bá Xuyến làm An phủ sứ phủ Hoài Đức, tức là phủ Phụng Thiên thời Hậu Lê.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Phùng Cơ** (chữ Hán: 黄馮基; ?-1787), còn gọi là **quận Thạc** (từ chữ Thạc quận công 碩郡公), là tướng thời Lê Mạt trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia phò tá và dự
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
[[Đình Bình Thủy, Cần Thơ.]] **Thành hoàng** hay **Thần hoàng**, **Thần Thành hoàng**, là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Thần Thành hoàng có thể mang nhiều cái tên khác
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với **69** tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình.
**Tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II** được cử hành vào ngày 8 tháng 4 năm 2005, tức là sáu ngày sau khi ông qua đời vào ngày 2 tháng 4. Tang lễ liên
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Vĩnh Hoàng** (chữ Hán: 永璜; ; 5 tháng 7 năm 1728 - 21 tháng 4 năm 1750), Ái Tân Giác La, là Hoàng trưởng tử của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Thân phận Hoàng
**Hoằng Lộc** là một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Xã Hoằng Lộc trước tháng 6 năm 2025 ### Địa lý nhỏ|486x486px|_Vị trí địa lý xã Hoằng Lộc_ Hoằng Lộc cách trung tâm
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Lê Chí Trực** (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh **Hoàng Việt**, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Hoàng Ngũ Phúc** (chữ Hán: 黃五福, 1713 – 1776) là danh tướng, hoạn quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Hoàng Ngũ Phúc có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc
**Vọng cổ**, hay **vọng cổ Bạc Liêu**, là điệu nhạc rất thịnh hành ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Bắt nguồn từ bài _"Dạ cổ hoài lang"_ (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng)
Phượng hoàng tại Tử Cấm Thành Bắc Kinh **Phượng hoàng** (còn được gọi là **Phụng hoàng**; tiếng Trung giản thể: 凤凰, phồn thể: 鳳凰 _fènghuáng_; tiếng Nhật: 鳳凰 _hō-ō_; tiếng Triều Tiên: 봉황 _bonghwang_) nguyên
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Gêlasiô I** (Latinh:**Gelasius I**) là vị Giáo hoàng thứ 3 có nguồn gốc Phi châu. Ông là vị Giáo hoàng kế nhiệm Giáo hoàng Felix III và là vị Giáo hoàng thứ 49. Theo niên
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
Tinh chất hoàng đằng Mẹ Ken Thành phần: Chiết xuất đậm đặc từ cây hoàng đằng, ngưu bàng, màng đậu phụng, cỏ sữa, mật ong lên men, tràm trà, Vitamint B5, chiếc xuất cây hoàng