✨Hồ Ptolemy

Hồ Ptolemy

Hồ Ptolemy là một hồ cũ ở Sudan. Hồ này hình thành trong thế Holocene ở vùng Darfur, trong thời kỳ gió mùa tại châu Phi mạnh hơn bây giờ. Sự tồn tại của hồ được xác định từ khoảng 9.100 đến 2.400 năm trước đây. Hồ này có thể đạt diện tích 30.750 km² (11.870 dặm vuông), lớn hơn hồ Erie ngày nay. Nó là một hồ nước ngọt được cung cấp bởi nước ngầm và dòng chảy mặt từ các ngọn núi lân cận. Xung quanh hồ nước này có thể sinh thái đa dạng, và có thể tạo điều kiện cho sự phân bố loài vật ở Nile và hồ Chad.

Tên

Hồ còn được gọi là "hồ Tây Nubian", "West Nubian Paleolake" và "Northern Darfur Megalake". "Quần đảo Ptolemy" là những bãi cồn cát chìm dưới bờ phía đông, tạo thành các quần đảo.

Địa chất

Địa điểm

Ngày nay miền đông Sahara là một trong những nơi khô cằn nhất trên Trái Đất. Trong những năm đầu và giữa thế Holocen, những hồ lớn như hồ Chad và hồ Ptolemy phát triển rất lớn trong sa mạc Sahara. Sự hình thành các "paleolakes" này do một cơn gió mùa châu Phi mạnh hơn bởi độ nghiêng trục quay cao hơn và điểm cận nhật trùng với cuối tháng 7 và xảy ra mùa gió mùa.

Hồ

Hồ Ptolemy ban đầu được cho là có diện tích khoảng 27.000 km² (10.000 dặm vuông); sau đó nghiên cứu trên cơ sở các bản đồ có độ tin cậy cao hơn cho thấy nó không lớn hơn 5.330 km² (2.060 dặm vuông). Sau đó nữa, các bản đồ mới hơn cho thấy diện tích bề mặt của nó lớn hơn 8.133 km² và 11.230 km² (4.340 dặm vuông) và thể tích tương ứng và .

Độ sâu của nước đạt 15 m (49 ft). Tùy thuộc vào vị trí, mực nước có thể cao tới 550 m (1.800 ft) hoặc thậm chí là 555 m (1.821 ft) trên mực nước biển. Đã tìm thấy bằng chứng nước hồ cao tới 570 – 576 m (1.870 ft — 1.890 ft) trên mực nước biển; nếu mực nước cao tới đó, hồ sẽ có diện tích 30.750 km² (11.870 dặm vuông) và thể tích khoảng 2.530 kilômét khối (610 cu mi). Kích thước như vậy lớn hơn hồ lớn nhất của Canada, hồ Gấu Lớn, và lớn hơn so với hồ Erie. Nó có thể cao tới 83 m (272 ft) so với mực nước biển. Các giai đoạn nước hồ thấp hơn, nó có thể cao 565 m (1.854 ft) và 560 m (1.840 ft).

Bờ hồ phát triển lên phía Bắc; sự phát triển của những cánh đồng cát trên bờ phía Tây khiến cho việc xác định bờ hồ ngày càng khó khăn. Các châu thổ trở thành nơi nước sông đổ vào hồ. Các bờ hồ phía Nam và phía Tây đã phát triển một khu thực vật bất thường. Quạt phù sa được xác định ở bờ Tây Bắc.

Hồ tồn tại trong Wadi Howar, lưu vực Darfur ngày nay. Các ốc đảo Atrun và Nukheila ngày nay tồn tại trên đáy hồ Ptolemy cũ. Như hồ Chad ngày nay. Nước hồ ở phía Nam và Tây có thể cao 549 m (1.801 ft) so với mực nước biển. Lưu vực hồ có thể được hình thành từ thế Holocen bằng quá trình trầm tích gió.

Đá được hình thành trong hồ tạo ra yardangs, aragonit, canxit và goethite hình trầm tích ở sa mạc liền kề, thường ở vùng đầm lầy. Đá túp có tháp nhọn hình thành trong hồ, sau khi bị hồ khô bỏ lại.

Thủy văn

Hồ được cung cấp nước bởi dòng chảy Ennedi, Erdi Ma và một phần của dòng chảy Kurfrah, cũng như mạch nước ngầm; ít nhất một địa điểm ở đáy hồ cho thấy bằng chứng của áp lực nước được giải phóng. Lưu vực hồ lên đến 78.000 km² (30.000 dặm vuông); ước tính sau này là 128.872 km² (49.731 dặm vuông).

Các dòng chảy này giúp hồ không thành wadis, nhiều trong số đó là từ phía Bắc. Dòng chảy Ennedi rất quan trọng cho việc cân bằng nước của hồ Ptolemy. Các dòng nước khác nhau hỗ trợ trong việc nhân giống cây. Ở phía Tây Bắc, hệ thống thoát nước của hồ Ptolemy được bao quanh bởi các hệ thống thoát nước ở phía Bắc và bởi các hệ thống phía Đông Bắc về phía Đông Bắc.

Sự hiện diện của Asphataria cho thấy hồ là một hồ nước ngọt, mặt dù thỉnh thoảng nó là nước lợ. Lượng mưa vào khoảng mỗi năm ().

Ở độ cao nước là 550 m (1.800 ft) so với mực nước biển, hồ Ptolemy sẽ được kết nối với một hệ thống đã được lấp đầy hoặc chôn bởi trầm tích trẻ trong cao nguyên Abyad. Một kết nối giữa hồ Ptolemy và Wadi Howar là có thể, nhưng không được chứng minh. Ở mực nước cao 557 – 583 m (1.893 — 1.913 ft) so với mực nước biển, hồ Ptolemy sẽ tràn vào Wadi Arid.

Sinh thái

Hồ Ptolemy có hệ sinh thái đa dạng. Các loài thực vật được ghi nhận ở hồ Ptolemy là racospermaTamarix, cũng như Balanitos aegyptiacaCapparis decidua. Tranh hình thành trên bờ phía Nam và Tây của hồ. Sự tồn tại của các loài thực vật trong chi Hương bồ cho thấy giai đoạn nước hồ cạn xảy ra. Đá trầm tích Stromatolite cũng được hình thành trên bờ hồ và cùng với limnite để xác định bề mặt hồ.

Các loài thuộc lớp Giáp trai được tìm thấy trong hồ bao gồm Candonopsis, Cyprideis, Cypridopsis, Cyprilla, Darwinula, HerpetocyprisLimnocytherae.

Có khoảng 18 loài cá sống trong hồ, như Clarias lazera, Lates niloticusSynodontis. Tương tự như vậy, các hóa thạch của rùa nước và hà mã đã được tìm thấy trên khu vực của hồ cũ. Sự tồn tại của các động vật hoang dã đã dùng báo cáo trong bản đồ năm 1858. Hóa thạch của các động vật khác được tìm thấy là cá sấu sông Nile, pelomedusidae và trionychidae. Động vật móng guốc và Thryonomys đã từng sống quanh hồ.

Bờ phía Nam của hồ Ptolemy có thể có con người đặt chân đến vào thời đại đồ đá mới, và có thể cả voi cũng có mặt. Ngoài ra, nhiều hiện vật nhân tạo được tìm thấy trong khu vực xung quanh hồ cũ.

Niên đại

Trong suốt thế Pleistocen, một "hồ Sidiq" được hình thành gần phía Bắc hồ Ptolemy. Nó được ghi nhận cách đây 21.600 ± 600 năm. Không có hồ lớn nào được tìm thấy từ cuối thế Pleistocen; khí hậu tại thời điểm đó khô như hiện nay.

Cách đây 9.180 ± 185 năm, hồ Ptolemy từng là một hồ nước ngọt. Giai đoạn hồ tạm thời xuống mực nước thấp nhất là vào khoảng từ 7.470 ± 100 năm đến 8.100 ± 80 năm so với hiện tại và có liên hệ mật thiết đến sự gia tăng tột bậc hàm lượng dinh dưỡng. Mực nước thấp hơn cho phép động vật trên cạn đi vào bên trong hồ.

Đo đạc phóng xạ cacbon-14 cho thấy độ tuổi của hồ là 6.680 ± 135 và 6.810 ± 70 năm. Các đo đạc ở phía Bắc là 7.900 - 6.400 năm trước đây, và 9.250 - 3.800 năm trước đây. Đây là thời gian mà mực nước hồ ít ổn định hơn. Các dữ liệu từ hóa thạch cho thấy không có việc cạn nước trong thời gian này.

Các wadi đã xuất hiện cách đây 3.300 - 2.900 và 3.300 - 2.400 năm trước đây ở phía Nam và phía Bắc. Trong thời gian cạn nước, hồ bị chia ra thành các bể riêng biệt. Các quá trình trầm tích gió đã loại bỏ các chứng cứ nhỏ nhất, thời gian chính xác hồ biến mất không được xác định.

Mối quan hệ

Hồ Ptolemy có mối quan hệ đến hệ thống núi ngầm Nubian; trong mô phỏng, mực nước tối đa trong mạch nước ngầm nằm sát bề mặt hồ, và khoảng 3 kilômét khối/l (0,72 cu mi/l) nước hồ rút xuống mạch nước ngầm mỗi năm. Hồ còn hỗ trợ cho việc trao đổi các sinh vật giữa hồ Chad và Nile.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hồ Ptolemy** là một hồ cũ ở Sudan. Hồ này hình thành trong thế Holocene ở vùng Darfur, trong thời kỳ gió mùa tại châu Phi mạnh hơn bây giờ. Sự tồn tại của hồ
**Cụm sao Hồ Điệp** (còn gọi là **Messier 6**, **M6** hay **NGC 6405**) là một cụm sao phân tán gồm các ngôi sao nằm trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Tên gọi của nó xuất
**_Lạp Hộ_** (獵戸), nguyên tên gốc là **Orion** (nhân vật giỏi săn bắn trong thần thoại Hy Lạp), được dịch sang tiếng Hán thành _Lạp Hộ_, nghĩa là _Thợ Săn_, là một chòm sao nổi
**Tinh vân Lạp Hộ** hay **Tinh vân Orion** (**Messier 42**, **M42** hay **NGC 1976**) là tinh vân phát xạ có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Lạp Hộ, được nhà thiên văn học
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Sao Thiên Lang** hay **Thiên Lang tinh** là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm với cấp sao biểu kiến là -1,46. Tên gọi theo định danh Bayer của sao Thiên Lang là **α
Chòm sao **Phi Mã** 飛馬, (tiếng La Tinh: **_Pegasus_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con ngựa bay. Chòm sao này
**Song Tử** (双子) (tiếng Latinh: Gemini, biểu tượng: ♊︎) là một trong những chòm sao của Đai Hoàng Đạo và nằm ở bán cầu bắc. Nó là một trong 48 chòm sao được mô tả
**Muḥammad ibn Mūsā al-Khwārizmī** (Tiếng Ả Rập: **محمد بن موسى الخوارزمي**) là một nhà toán học, thiên văn học, chiêm tinh học và địa lý học Ba Tư. Ông sinh vào khoảng năm 780 tại
Chòm sao **Thiên Nga** 天鵝, (tiếng La Tinh: **_Cygnus_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con thiên nga. Chòm sao này
Chòm sao **Thiên Thố** 天兎/天兔, (tiếng La Tinh: **_Lepus_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con thỏ. Chòm sao này có
**Claudius Ptolemaeus** (tiếng Hy Lạp: Κλαύδιος Πτολεμαῖος _Klaudios Ptolemaios_), hoặc một cách đơn giản là **Ptolemaeus**, **Ptolemy** hay **Ptolémée** hay **Ptôlêmê**, (khoảng 100-178) là một nhà bác học Hy Lạp xuất xứ từ Tebaida, học
**Bọ Cạp** (chữ Hán: 天蝎/天蠍 đọc đúng là **Thiên Hiết** hay còn gọi là **Thiên Hạt**, tiếng La Tinh: **_Scorpius_** để chỉ _con bọ cạp_) là một trong các chòm sao trong đường Hoàng Đạo.
**Thiên Cầm** (**天琴**; tiếng Latinh: **Lyra**, từ ) là một chòm sao nhỏ. Đây là một trong 48 chòm sao Ptolemy và là một trong 88 chòm sao hiện đại được Liên đoàn Thiên văn
Chòm sao **Vũ Tiên** 武仙, (tiếng La Tinh: **_Hercules_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh lực sĩ Hercules trong thần thoại
Chòm sao **Ba Giang** (chữ Hán 波江; tiếng La Tinh: **_Eridanus_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh sông Cái, sông Pô
Chòm sao **Hải Đồn** (海䐁), (tiếng La Tinh: **_Delphinus_**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh Cá Heo. Chòm sao này có
**Tiên Vương** (chữ Hán: 仙王, tiếng Latinh: **Cepheus**) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh Tiên Vương. Chòm sao này có diện
Chòm sao **Đại Khuyển** 大犬 (phiên âm /ˌkeɪnɪs ˈmeɪdʒɚ/, Tiếng La Tinh:**_Canis Major_** nghĩa là _con chó lớn_) là một trong 48 chòm sao cổ điển của Ptolemy và là một trong 88 chòm sao
**Messier 7** hay **M7**, còn gọi là **NGC 6475** và đôi khi là **cụm sao Ptolemy**, là một cụm sao phân tán gồm các ngôi sao trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Cụm sao này
**Ptolemaios VIII Euergetes II** (khoảng 182 TCN – 26 tháng 6,116 TCN), tên hiệu là **Physcon**, là quốc vương nhà Ptolemaios ở Ai Cập. Sự nghiệp rắc rối của ông bắt đầu năm 170 TCN,
**Nhánh Orion** hay **Nhánh Lạp Hộ** là một nhánh xoắn ốc nhỏ của Ngân Hà, có bề rộng 3.500 năm ánh sáng và bề dài xấp xỉ 10.000 năm ánh sáng. Hệ Mặt Trời và
Chòm sao **Tiên Nữ** (tiếng Latinh: _Andromeda_) là một trong 48 chòm sao được nhà thiên văn Hy Lạp-La Mã Claudius Ptolemaeus ghi nhận vào thế kỷ thứ 2 và hiện là một trong 88
**Polaris** là sao sáng nhất trong chòm sao Tiểu Hùng, tên La Tinh: _Alpha Ursae Minoris_, có ký hiệu là _α UMi_. Hiện nay Polaris là sao Bắc Cực, vì vị trí rất gần thiên
**Trận Actium** là trận chiến có ý nghĩa quyết định trong chuỗi các cuộc nội chiến thời Cộng hòa La Mã, với hai phe tham chiến: một bên là lực lượng của Octavius và một
Chòm sao **Kim Ngưu** (金牛) (tiếng Latinh: **_Taurus_**, biểu tượng Tập tin:Taurus.svg) là một trong mười hai chòm sao hoàng đạo, nằm giữa chòm sao Bạch Dương kề phía tây và chòm sao Song Tử
**Nhân Mã** (人馬) hay **Cung Thủ** (弓手), **Xạ Thủ** (射手), (tiếng La Tinh: **_Sagittarius_**), biểu tượng là hình một mũi tên Tập tin:Sagittarius.svg, là một trong mười hai chòm sao hoàng đạo, nằm giữa chòm
**Demetrios II** (tiếng Hy Lạp: _Δημήτριος Β_ mất 125 TCN), được gọi là **Nicator** (tiếng Hy Lạp: "Νικάτωρ", nghĩa là "người chiến thắng") là con trai của Demetrios I Soter. Ông đã cai trị đế
**Cụm sao Tổ ong** (từ tiếng Anh: Beehive Open Cluster), **cụm sao Quỷ** (từ tiếng Trung: 鬼星團, Quỷ tinh đoàn), còn được gọi là **Praesepe** (tiếng Latin có nghĩa là "máng cỏ"), **M44**, **NGC 2632**,
thumb|_Quadripartitum_, 1622 **Tetrabiblos** (Τετράβιβλος) (tiếng Việt: **Bốn cuốn sách**), cũng được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Apotelesmatiká** (Ἀποτελεσματικά) (tiếng Việt: **Những hiệu ứng**), cũng như trong tiếng Latin như là **Quadripartitum** (tiếng Việt:
**Nicolaus Copernicus** (theo tiếng Latinh; tiếng Ba Lan: _Mikołaj Kopernik_, tiếng Đức: _Nikolaus Kopernikus_, thường được phiên âm trong tiếng Việt là **Cô-péc-ních** theo tiếng Pháp _Nicolas Copernic_) (19 tháng 2, 1473 – 24 tháng 5,
thumb|Bản đồ của [[Dacia thuộc La Mã cho biết **Carpi** bao phủ khu vực giữa hai con sông Siret và Prut ở Moldavia (đông Rumani)]] **Người Carpi** hoặc **Carpiani** là một tộc người cổ đại
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Phải|Hệ Mặt Trời với Mặt Trời ở trung tâm phải|Hệ nhật tâm (bên dưới) so sánh với mô hình địa tâm (bên trên) Trong thiên văn học, **mô hình nhật tâm** là lý thuyết cho
**Đơn vị thiên văn** (ký hiệu: au) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi
**Cơ học thiên thể** là một nhánh của thiên văn học giải quyết các vấn đề chuyển động và hiệu ứng hấp dẫn của các thiên thể. Lĩnh vực này vận dụng các nguyên lý
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Chiêm tinh học phương Tây** là hệ thống chiêm tinh phổ biến nhất ở các quốc gia phương Tây. Chiêm tinh học phương Tây có nguồn gốc lịch sử từ tác phẩm _Tetrabiblos_ của Ptolemy
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
phải|nhỏ|Chuyển động tiến động của trục Trái Đất. Trái Đất quay một vòng mỗi ngày (theo chiều các mũi tên màu trắng) quanh trục quay của nó (màu đỏ); chính trục quay này cũng quay
**Aristarchus xứ Samos** hay **Aristarch xứ Samos** (; 310 TCN – khoảng 230 TCN) là một nhà thiên văn và nhà toán học người Hy Lạp, sinh ra trên đảo Samos ở Hy Lạp. Ông
**Quần thể đền thờ đảo Philae** (phát âm là "phi lây"; tiếng Hy Lạp là philai, phili hay pilakh; tiếng Ai Cập: ) là một quần thể đền thờ nằm trên một hòn đảo giữa
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**Aphrodite** (Việt hóa: **Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ**, , phát âm tiếng Hy Lạp Attica: , tiếng Hy Lạp Koine , ) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, tình dục, sắc đẹp, niềm
Khu vực sinh sống của người Alemanni, những địa điểm các trận chiến giữa người Alemanni và người La Mã, từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6 **Alemanni** (**Alamanni**, **Alamani**) là một liên minh
thumb|right|Quang học nghiên cứu hiện tượng [[tán sắc của ánh sáng.]] **Quang học** là một ngành của vật lý học nghiên cứu các tính chất và hoạt động của ánh sáng, bao gồm tương tác
Hải đăng Alexandria **Hải đăng Alexandria**, đôi khi được gọi **Hải đăng của Alexander** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: ὁ Φάρος τῆς Ἀλεξανδρείας, Koine đương thời ), là một Hải đăng được xây trong
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_;  TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
**Ireland** (phiên âm: "Ai-len", tiếng Anh: ; ; Ulster-Scots: ) là một hòn đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Đảo này tách biệt với Đảo Anh ở phía đông qua Eo biển Bắc, Biển Ireland