✨Tinh vân Lạp Hộ

Tinh vân Lạp Hộ

Tinh vân Lạp Hộ hay Tinh vân Orion (Messier 42, M42 hay NGC 1976) là tinh vân phát xạ có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Lạp Hộ, được nhà thiên văn học người Pháp Nicolas-Claude Fabri de Peiresc phát hiện năm 1610.

Đây là một trong những tinh vân sáng nhất có thể nhìn thấy bằng mắt thường nhờ cấp sao biểu kiến 4, nằm ở khoảng cách 1.344 ± 20 năm ánh sáng với bề rộng 24 năm ánh sáng, và là vùng hình thành sao gần Trái Đất nhất. Nó có khối lượng khoảng 2.000 lần Mặt Trời.

Tinh vân Lạp Hộ là một trong những vật thể được quan sát và chụp ảnh nhiều nhất trên bầu trời, và cũng là một trong những thiên thể được nghiên cứu nhiều nhất. Nó cho ta biết nhiều về các các ngôi sao và hệ hành tinh được hình thành như thế nào từ sự sụp đổ của các đám mây khí và bụi. Các nhà thiên văn học đã quan sát trực tiếp được các đĩa tiền hành tinh và các sao lùn nâu bên trong tinh vân, các dòng chảy hỗn loạn và mạnh của khí, và ảnh hưởng quang ion-hóa từ các ngôi sao rất nặng gần đó.

Các đặc tính vật lý

Tinh văn Lạp Hộ có thể thấy được bằng mắt thường ngay ở cả một số khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm ánh sáng. Nó xuất hiện như một ngôi sao ở chính giữa "thanh kiếm" của chòm sao Lạp Hộ. Đối với những người quan sát tốt có thể nhận ra sự mờ của nó, và đặc tính tinh vân hiện ra rõ ràng khi quan sát bằng ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ. Độ sáng bề mặt cực đại của vùng trung tâm M42 là 17 độ/arcsec2 và của vầng sáng xanh phía ngoài là 21.3 độ/arcsec2.

Tinh vân Lạp Hộ chứa một cụm sao mở rất trẻ, gọi là cụm sao Trapezium, bao gồm bốn sao chính trong một bán kính khoảng 1,5 triệu năm ánh sáng. Hai trong số đó thực chất là các hệ sao đôi, do đó có cả thảy sáu sao. Cụm Trapezium là một phần của của một tổ chức sao lớn hơn nhiều trong tinh vân, bao gồm khoảng 2.800 sao trong phạm vi có bán kính 20 năm sáng. Tinh vân lại thuộc vào một tổ chức lớn hơn rất nhiều, gọi là Đám mây phân tử Orion, trải dài hàng trăm năm ánh sáng trên chòm sao Lạp Hộ. Hai triệu năm trước tinh vân Lạp Hộ có thể là nơi xuất phát của các sao như AE Aurigae, 53 Arietis và Mu Columbae, hiện tại đang dịch chuyển ra khỏi tinh vân với tốc độ hơn 100 km/s.

Màu sắc

Những người quan sát từ lâu đã để ý đến màu xanh lục đặc trưng của tinh vân, bên cạnh các vùng đỏ và xanh dương. Màu đỏ là kết quả của bức xạ tái kết hợp Hα ở bước sóng 656,3 nm. Màu xanh-tím là do phản chiếu lại các ngôi sao rất nặng lớp O ở lõi của tinh vân.

Còn màu xanh thực sự là một bí ẩn cho đến tận đầu thế kỷ 20 vì nó không trùng với quang phổ của bất kỳ nguyên tố nào đã biết vào thời điểm đó. Có một số giả thuyết cho rằng nó là do một nguyên tố hoàn toàn mới, gọi là nebulium. Với hiểu biết tốt hơn về vật lý nguyên tử, sau này người ta tìm ra nguyên nhân của màu xanh lục là do chuyển tiếp electron với xác suất thấp trong oxi bị ion hóa hai lần. Bức xạ này không thể tái hiện trong phòng thí nghiệm vào thời điểm đó vì nó cần một môi trường chân không tĩnh và hầu như không có va chạm của không gian.

Lịch sử

trái|nhỏ|Hình vẽ của Messier trong hồi ký năm 1771 của mình, Mémoires de l'Académie Royale Có phỏng đoán rằng những người Maya ở Trung Mỹ có thể đã mô tả tinh vân trong truyền thuyết "Ba hòn đá sưởi" của họ; Nếu quả là như vậy thì chúng là ba sao Rigel, Saiph, và Alnitak, tạo thành một tam giác gần đều với "thanh kiếm" (bao gồm tinh vân) ở giữa.

Cả hai tác phẩm Almagest của Ptolemy và "Sách về các sao cố định" của al Sufi đều không nhắc đến tinh vân, mặc dù chúng liệt kê những mảng mờ khác trên bầu trời, hay ngay cả Galileo cũng chưa từng đề cập đến nó, mặc dù ông đã thực hiện một số quan sát xung quanh tinh vân bằng kính viễn vọng vào các năm 1610 và 1617. Điều này dẫn tới giả thuyết rằng sự bùng phát của các ngôi sao chiếu sáng có thể đã làm tăng độ sáng của tinh vân.

Người đầu tiên phát hiện ra nó là một tinh vân khuếch tán thường được cho là nhà thiên văn người Pháp Nicolas-Claude Fabri de Peiresc vào ngày 26 tháng 11 năm 1610. Ông so sánh nó với một sao chổi sáng được quan sát vào năm 1618 và có những nhận xét như sau:Mô tả của ông về các sao trung tâm tạo thành một hình chữ nhật, khác với các đầu sao chổi, có thể đã là một trong những quan sát đầu tiên về cụm sao Trapezium. (Người phát hiện ra các sao này là Galileo Galilei vào ngày 2 tháng 4 năm 1617, mặc dù ông không phát hiện ra tinh vân, có thể do hạn chế về ống kính thiên văn thời đó).

Tinh vân Lạp Hộ sau đó được các nhà thiên văn học nổi tiếng khác phát hiện độc lập, bao gồm Giovanni Battista Hodierna (người đã phác họa lại tinh vân này trong tác phẩm De systemate orbis cometici, deque admirandis coeli characteribus). Vào năm 1659, nhà khoa học người Hà Lan Christiaan Huygens công bố các phác họa chi tiết về vùng trung tâm tinh vân trong Systema Saturnium.

Charles Messier quan sát tinh vân vào ngày 4 tháng 3 năm 1769, và ông cũng để ý ba ngôi sao trong cụm Trapezium. Messier công bố ấn bản đầu tiên của mình, danh mục các vật thể trên bầu trời vào năm 1774 (hoàn thiện vào năm 1771). Do tinh vân Lạp Hộ nằm thứ 42 trong danh sách, nó có ký hiệu M42. nhỏ|200x200px|Bức ảnh đầu tiên chụp tinh vân Lạp Hộ do Henry Draper. nhỏ|200x200px|Một trong số các bức ảnh của Andrew Ainslie Common vào năm 1883, lần đầu cho thấy sự phơi sáng lâu có thể làm hiện ra các sao và tinh vân không nhận thấy khi quan sát thông thường.

Vào năm 1865 nhà thiên văn học nghiệp dư người Anh William Huggins sử dụng phương pháp phân tích quang phổ của ông với tinh vân và nhận thấy rằng, giống như mọi tinh vân khác mà ông đã phân tích, nó được làm từ "khí phát sáng". Vào ngày 30 tháng 9 năm 1880, Henry Draper sử dụng một loại phim mới vào thời bấy giờ với một kính viễn vọng khúc xạ đường kính 28 cm để ghi lại hình ảnh phơi sáng của tinh vân trong 51 phút, bức ảnh đầu tiên về tinh vân. Một loạt ảnh khác, được thực hiện vào năm 1883 bởi Andrew Ainslie Common khi ông sử dụng một kính viễn vọng phản xạ tự chế với đường kính 91 cm tại Ealing, tây London. Các bức ảnh này lần đầu tiên cho thấy các sao và chi tiết mờ tới mức không thể quan sát thông trực tiếp.

Năm 1902, Vogel và Eberhard phát hiện ra các chuyển động với vận tốc khác nhau bên trong tinh vân và năm 1914 các nhà khoa học ở Marseilles sử dụng giao thoa kế đo được các chuyển động dị thường. Campbell và Moore xác nhận các kết quả này thông qua quang phổ kế, cho thấy các dòng chảy rối bên trong tinh vân.

Vào năm 1931, Robert J. Trumpler để ý thấy các sao mờ hơn gần Trapezium tạo thành một cụm, và ông gọi nó bằng cái tên ngày nay, Dựa trên độ sáng và phân loại quang phổ, ông tính ra được khoảng cách đến cụm sao này là 1.800 năm ánh sáng. Con số này gấp ba lần khoảng cách thường được chấp nhận vào thời điểm đó, nhưng lại gần với các giá trị hiện tại hơn.

Vào năm 1993, kính viễn vọng không gian Hubble lần đầu tiên quan sát tinh vân. Kể từ đó, tinh vân Lạp Hộ thường xuyên là mục tiêu nghiên cứu của Hubble. Các hình ảnh đã được sử dụng để tạo ra một mô hình chi tiết về tinh vân trong không gian ba chiều. Các đĩa tinh vân tiền hành tinh đã được phát hiện xung quanh hầu hết các sao trẻ trong tinh vân, và sự phá hủy các đĩa này do bức xạ cực tím rất mạnh từ ngôi sao đã được nghiên cứu.

Vào năm 2005, thiết bị Advanced Camera for Surveys của Hubble đã ghi lại được bức ảnh chi tiết nhất trong lịch sử về tinh vân. Bức ảnh được tạo nên từ 104 lần di chuyển trong quỹ đạo của Hubble, ghi lại hơn 3.000 sao có cấp sáng từ 23 trở lên, trong đó có các sao lùn nâu non trẻ và các sao đôi có thể trở thành sao lùn nâu. Một năm sau đóm các nhà khoa học làm việc với Hubble công bố cặp sao lùn nâu che lấp đầu tiên, 2MASS J05352184–0546085. Cặp sao đôi này có khối lượng xấp xỉ lần lượt là và , với chu kỳ quỹ đạo 9,8 ngày. Điều đáng ngạc nhiên là ngôi sao nặng hơn trong hai lại sáng hơn sao còn lại.

Cấu trúc

nhỏ|350x350px|Một bản đồ sao trong tinh vân Orion. nhỏ|Các hình ảnh quang học cho thấy các đám mây khí và bụi trong tinh vân Orion; hình ảnh hồng ngoại (bên phải) cho thấy các sao trẻ phát sáng ở bên trong. Toàn bộ tinh vân Lạp Hộ trải dài khoảng 1 độ trên bầu trời, và chứa các đám mây bụi và khí trung hòa, các tổ chức sao, các vùng khí bị ion hóa và tinh vân phản xạ.

Tinh vân Lạp Hộ là một phần của của một tinh vân lớn hơn rất nhiều là đám mây phân tử Orion. Đám mây phân tử này kéo dài khắp chòm sao và bao gồm vòng Barnard, tinh vân Đầu Ngựa, Messier 43, Messier 78 và tinh vân Ngọn Lửa. Các sao hình thành trong khắp đám mây này, nhưng hầu hết các sao trẻ tập trong thành các cụm dày đặc như trong tinh vân Lạp Hộ. trái|nhỏ|Đám mây phân tử Orion A từ [[VISTA (telescope)|VISTA cho thấy các sao nặng trẻ và các đối tượng khác.]] Mô hình thiên văn học hiện tại về tinh vân bao gồm một vùng H II, có tâm rơi vào ngôi sao Theta1 Orionis C, nằm bên cạnh một đám mây phân tử kéo dài, trong một vùng trống tạo bởi các sao trẻ có khối lượng lớn. (Theta1 Orionis C phát ra ánh sáng gây ion hóa gấp 3-4 lần ngôi sao sáng nhất sau nó, Theta2 Orionis A). Vùng H II có nhiệt độ lên tới 10.000 K, nhưng nhiệt độ này giảm đi rất nhiều ở phần rìa của tinh vân. Vùng H II này được bao quanh bởi một "vịnh" lõm, không đều của một đám mây đặc hơn, trung tính hơn, với các đám khí trung hòa nằm bên ngoài vùng vịnh. Khí bên trong đám mây phân tử có chuyển động và chảy rối với vận tốc rất khác nhau, nhất là ở khu vực trung tâm. Các chuyển động tương đối có thể lên tới trên 10 km/s.

Sự hình thành sao

trái|nhỏ|Một số đĩa tiền hành tinh trong tinh vân chụp bởi [[Kính viễn vọng không gian Hubble|Kính viễn vọng Hubble ]] trái|nhỏ|Hình thành sao trong Orion

Tinh vân Lạp Hộ là một ví dụ về "nhà trẻ sao", nơi mà các sao mới đang được tạo ra. Các quan sát về tinh vân đã cho thấy có xấp xỉ 700 sao trong các giai đoạn khác nhau của sự hình thành bên trong tinh vân.

Vào năm 1979, các quan sát với camera điện tử Lallemand tại đài thiên văn Pic-du-Midi cho thấy sáu nguồn ion hóa mạnh chưa được xác định gần cụm sao Trapezium. Các nguồn này được diễn giải là các hạt khí bị ion hóa một phần (partly ionized globules - PIGs). Ý tưởng là các đối tượng này đang bị ion hóa từ bên ngoài bởi M42. Các quan sát sau này với Very Large Array cho thấy các vùng cô đặc với kích thước của Hệ Mặt trời liên quan đến các đối tượng này. Lần này ý tưởng là các vật thể nói trên có thể là các sao có khối lượng nhỏ bao quanh bởi một đĩa bồi tụ tiền sao đang bị bốc hơi. Các quan sát vào năm 1993 bởi Hubble đã phần lớn xác nhận sự tồn tại của các đĩa tiền hành tinh bên trong tinh vân. Hubble còn phát hiện ra hơn 150 vật thể tương tự trong tinh vân và chúng được coi là các hệ sao trong giai đoạn sớm nhất của sự hình thành hệ mặt trời. Số lượng lớn các vật thể này được dùng làm bằng chứng cho sự phổ biến của các hệ hành tinh trong vũ trụ.

Các sao hình thành khi các đám khí hydro và các khí khác trong một vùng H II bị sụp đổ dưới trọng lực của chính nó. Khi khí co sụp lại, vùng trung tâm nhanh chóng dày lên và khí đốt nóng đến nhiệt độ cực cao do sự chuyển đổi từ thế năng hấp dẫn thành nhiệt năng. Nếu nhiệt độ đủ lớn, phản ứng tổng hợp hạt nhân sẽ xảy ra và hình thành một tiền sao. Tiền sao trở thành sao khi nó phát ra đủ năng lượng bức xạ để cân bằng với trọng lực của nó và chặn lại quá trình sụp đổ hấp dẫn.

Thông thường, một đám mây vật chất nằm ở một khoảng cách tương đối lớn tới ngôi sao trước khi phản ứng tổng hợp xảy ra. Đám mây tàn dư này chính là đĩa tiền hành tinh, nơi mà các hành tinh có thể hình thành. Các quan sát hồng ngoại cho thấy các hạt bụi trong các đĩa này đang lớn lên, chúng đang trong quá trình chuẩn bị hình thành vi thể hành tinh.

Một khi tiền sao bước vào giai đoạn dãy chính, nó được coi là một ngôi sao. Ngay cả khi các các đĩa tiền hành tinh có thể tạo ra các hành tinh, các quan sát cho thấy bức xạ cực mạnh từ các sao trong Trapezium đã phải phá hủy bất kỳ đĩa nào gần nó, nếu như cụm có tuổi bằng các sao khối lượng thấp trong cụm. Gió sao hình thành nên các sóng xung chấn hay sự mất ổn định thủy động lực học khi nó tiếp cận khí bên trong tinh vân, tạo nên hình thù của đám mây khí. Sóng xung chấn từ gió sao còn đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành sao bằng cách nén các đám mây khí lại, tạo nên sự mất đồng tính dẫn tới sụp đổ hấp dẫn.

nhỏ|Các gợn sóng tạo nên từ [[bất ổn định Kelvin–Helmholtz do tác động từ gió sao]]

Có ba loại xung chấn khác nhau trong tinh vân. Nhiều trong số đó được tìm thấy ở các đối tượng Herbig–Haro:

  • Xung chấn hình vòng cung là các xung chấn tĩnh và hình thành khi hai luồng hạt va chạm vào nhau. Chúng xuất hiện gần các sao nóng nhất bên trong tinh vân nơi mà tốc độ gió sao được ước tính lên đến hàng nghìn km/s và khoảng vài chục km/s bên ngoài tinh vân. Xung chấn hình vòng cung còn được tạo ra ở phần đầu của các tia bắn ra từ các sao khi tia này va chạm với vật chất liên sao.
  • Xung chấn do các tia vật chất bắn ra từ các sao mới hình thành loại T Tauri. Các luồng vật chất hẹp này di chuyển với vận tốc hằng trăm km/s, và trở thành xung chấn khi nó gặp phải khí hầu như đứng yên.
  • Các xung chấn bị bẻ cong, có hình vòng cung đối với người quan sát. Chúng được tạo ra khi xung chấn do các tia vật chất gặp phải khí di chuyển cắt ngang.
  • Sự tiếp xúc giữa gió sao với đám mây xung quanh cũng tạo nên các "đợt sóng", được cho là các bất ổn định Kelvin–Helmholtz.

Các chuyển động khí bên trong M42 là phức tạp, nhưng đều hướng về phía ngoài thông qua chỗ mở của vịnh và về phía Trái đất.

Tiến hóa

Các đám mây liên sao như tinh vân Lạp Hộ được tìm thấy xuyên suốt các thiên hà như dải Ngân Hà. Chúng bắt đầu từ các đám hydro lạnh, trung tính cùng với một số nguyên tố khác dưới sự ảnh hưởng của trọng lực. Đám mây có thể chứa hàng trăm nghìn khối lượng Mặt trời và trải dài hàng trăm năm ánh sáng. Chỉ cần một lực hấp dẫn rất nhỏ cũng đủ để khiến đám mây co sụp lại, điều đó được ngăn cản bởi áp suất rất yếu của khí bên trong đám mây.

Bất kể do va chạm với các dải xoắn ốc của thiên hà, hay do sóng xung chấn từ các vụ nổ siêu tân tinh, các nguyên tử kết hợp thành các phân tử và kết quả là một đám mây phân tử. Điều này báo trước sự hình thành sao bên trong đám mây, thường được cho là diễn ra trong vòng 10-30 triệu năm, khi các vùng vượt qua khối lượng Jeans và các khối bị mất cân bằng co sụp thành các đĩa. Đĩa này tập trung lại ở tâm, hình thành nên một ngôi sao, và có thể bao quanh bởi một đĩa tiền hành tinh. Đây là giai đoạn hiện tại của tinh vân Lạp Hộ, và còn nhiều sao vẫn đang được hình thành từ đám mây đang co lại. Các sao trẻ nhất và sáng nhất chúng quan sát được trong tinh vân có tuổi khoảng 300.000 năm, và sao sáng nhất chỉ mới 10.000 năm tuổi. Một số các sao đang co sụp này có khối lượng rất lớn, do đó phát ra một lượng lớn các tia cực tím có tính ion hóa mạnh. Có thể thấy một trong số chúng nằm trong cụm Trapezium. Qua thời gian, bức xạ cực tím của các rất nặng ở trung tâm của tinh vân sẽ đẩy khí và bụi xung quanh nó vào không gian. Quá trình này là nguyên nhân của vùng trống bên trong tinh vân, để lộ ra các ngôi sao ở giữa.

Hình ảnh của Kính viễn vọng không gian Hubble

Tập tin:Orion Nebula - Hubble 2006 mosaic 18000.jpg|Toàn cảnh tinh vân Tập tin:Orion Nebula (M42) part HST 4800px.jpg|Một phần của tinh vân, cho thấy xung chấn hình vòng cung Tập tin:Orion.nebula.arp.750pix.jpg|Vùng trung tâm với cụm Trapezium Tập tin:Orion Nebula M42 HST prc1990-26.jpg|Cận cảnh vùng trung tâm, với các đĩa tiền hành tinh
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tinh vân Lạp Hộ** hay **Tinh vân Orion** (**Messier 42**, **M42** hay **NGC 1976**) là tinh vân phát xạ có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Lạp Hộ, được nhà thiên văn học
**_Lạp Hộ_** (獵戸), nguyên tên gốc là **Orion** (nhân vật giỏi săn bắn trong thần thoại Hy Lạp), được dịch sang tiếng Hán thành _Lạp Hộ_, nghĩa là _Thợ Săn_, là một chòm sao nổi
**Messier 43** (còn gọi là **M43**, **tinh vân De Mairan**, **NGC 1982**) là một khu vực H II trong chòm sao Lạp Hộ. Nó được Jean-Jacques Dortous de Mairan phát hiện trước năm 1731. Tinh
[[IC 2118|Tinh vân phản xạ Đầu phù thủy (IC2118), khoảng 1.000 năm ánh sáng từ Trái Đất, gắn liền với ngôi sao sáng Rigel (sao Sâm 7) trong chòm sao Lạp Hộ (Orion). Tinh vân
**Tinh vân Tarantula** hay **tinh vân Nhện Đỏ** (hay còn được biết đến với tên gọi **30 Doradus**) là một vùng H II nằm trong đám mây Magellan lớn. Khoảng cách của nó với chúng
**Tinh vân Dumbbell nhỏ**, còn gọi là **Messier 76**, **NGC 650/651**, **tinh vân Barbell**, hay **tinh vân Cork** , là một tinh vân hành tinh trong chòm sao Anh Tiên. Pierre Méchain phát hiện ra
**Tinh vân Đầu Ngựa** (còn gọi là **Barnard 33** trong tinh vân sáng **IC 434**) là một tinh vân tối trong chòm sao Lạp Hộ. Tinh vân này nằm dưới (về phía nam) Alnitak, ngôi
nhỏ|phải|Ảnh thiên văn về Đai lưng Lạp Hộ **Đai lưng Lạp Hộ**, **Đai lưng Tráng Sĩ** hay **Đai lưng Orion**, **vành đai Orion** là một mảng sao thuộc chòm sao Lạp Hộ. Nó bao gồm
nhỏ|Tinh vân [[chòm sao Lạp Hộ nhìn từ kính viễn vọng không gian Hubble.]] **Tinh vân** (từ Hán-Việt nghĩa là _mây sao_; tiếng Latinh: _nebulae_ có nghĩa là "đám mây") là hỗn hợp của bụi,
"**Tinh vân Chiếc Nhẫn**" nổi tiếng nằm phía bắc chòm sao Thiên Cầm, với danh lục là **Messier 57**, **M57** hay **NGC 6720**. Nó là một trong những ví dụ nổi bật về các thiên
**Tinh vân Xoắn Ốc**, còn gọi là **NGC 7293** hay **Tinh vân con mắt** là một tinh vân hành tinh lớn (_Planetary nebula_-PN) nằm trong chòm sao Bảo Bình. Nó được Karl Ludwig Harding khám
**Tinh vân tối** là loại tinh vân gồm khí và bụi không trong suốt và dày dặc tới mức có thể che khuất ánh sáng từ phát xạ nền hay tinh vân phản xạ (như
**Tinh vân Quả Tạ** (cũng được biết đến với tên **Tinh vân Lõi Táo**, thiên hà **Messier 27**, **M27**, hay **NGC 6853**) là một tinh vân hành tinh trong chòm sao Hồ Ly, ở khoảng
**Kính thiên văn Không gian James Webb** (**JWST**), trước đó gọi là **Kính thiên văn không gian thế hệ tiếp theo** (**NGST**), là một kính viễn vọng không gian đã được chế tạo và đã
**Tinh vân Ngọn lửa**, được chỉ định là NGC 2024 và Sh2-277, là một tinh vân phát xạ trong chòm sao Lạp Hộ. Nó cách xa khoảng 900 đến 1.500 năm ánh sáng. Ngôi sao
[[NGC 604, một vùng H II khổng lồ trong Thiên hà Tam Giác]] **Vùng H II** là một đám mây sáng lớn mà vật chất chủ yếu ở thể khí và plasma với mật độ
**Nhánh Orion** hay **Nhánh Lạp Hộ** là một nhánh xoắn ốc nhỏ của Ngân Hà, có bề rộng 3.500 năm ánh sáng và bề dài xấp xỉ 10.000 năm ánh sáng. Hệ Mặt Trời và
**Rigel** (β Ori, β Orionis, Beta Orionis) là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Lạp Hộ, là ngôi sao sáng thứ 7 trên bầu trời đêm, là ngôi sao siêu khổng lồ xanh trắng,
**NGC 2023** (còn được gọi là **LBN 954** ) là một tinh vân phát xạ và tinh vân phản xạ nằm trong chòm sao Lạp Hộ. Nó được phát hiện bởi William Herschel vào ngày
nhỏ|Cổng đá vào Làng dân tộc Vân Nam **Làng văn hóa dân tộc Vân Nam** () là một công viên chủ đề trưng bày các văn hóa dân gian, văn hóa và kiến trúc khác
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Thế vận hội** hay **Olympic** , còn có tên gọi cũ là _Thế giới vận động hội_, là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Thế vận hội Mùa hè 1896** (), tên chính thức là **Thế vận hội Mùa hè lần thứ I**, là sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức tại thành phố Athens, thủ đô
**Mãnh Lạp** (勐拉) còn gọi là **Mường La** là một trấn của huyện Kim Bình, châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đây là một hương trấn biên giới với Việt Nam của Trung
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
thumb|_[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene_ bởi Simeon Solomon, 1864]] thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào
**Chiêm tinh học và thiên văn học** được xét là có cùng nhau về mặt lịch sử (tiếng Latinh: _astrologia_) và chỉ được phân biệt thành hai lĩnh vực khác nhau vào thế kỷ 17
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
thumb|right|Hai người đồng tính nam hôn nhau trong một buổi diễu hành đồng tính. thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nam được tạo nên từ hai biểu tượng của [[sao Hỏa lồng vào
**Văn học** (chữ Hán: 文學) theo cách nói chung nhất, là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thì văn học là dạng văn bản được coi là một
**Sân vận động Georgios Karaiskakis** (), thường được gọi là **Sân vận động Karaiskakis** (, ), là một sân vận động bóng đá ở Piraeus, Attica, Hy Lạp. Đây là sân nhà của câu lạc
**Vân Nam** () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Tuyên Quang của Việt Nam.
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_;  TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
nhỏ|phải|Trẻ em Do Thái được khuyến khích đọc sách, trân quý sách nhỏ|phải|Người Do Thái có văn hóa đọc sách, coi trọng tiền bạc, làm giàu, vốn là bí quyết [[thành công]] **Văn hóa Do
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**136199 Eris** (trước đây được gọi là **2003 UB313**, biểu tượng: ⯰) là hành tinh lùn lớn nhất trong Thái Dương hệ và là thiên thể thứ 11 quay quanh Mặt Trời (tính theo khoảng
**Tình báo** là hoạt động thu thập tin tức một cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Gián điệp (tình báo viên, nhân viên tình báo
**Huyện Mãnh Lạp** (勐腊县; bính âm: Měnglà Xiàn, Mường La) là một huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp, Vân Nam, Trung Quốc. Đây là huyện cực nam của tỉnh
**Bọ Cạp** (tiếng Anh: Scorpio /ˈskɔːrpiəʊ/; tiếng Hy Lạp cổ: Σκορπιός _skorpiós_; ký hiệu: ♏︎), hay còn gọi là **Thiên Hạt**, **Hổ Cáp** hoặc **Thiên Yết**, là cung hoàng đạo thứ tám trong vòng tròn
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
nhỏ|phải|Bản vẽ về chòm sao Cự Giải có hình dáng một con cua **Động vật chân đốt** hay **động vật chân khớp** (_Arthropod_) là các sinh vật đóng nhiều vai trò trong văn hóa loài