✨Eris (hành tinh lùn)

Eris (hành tinh lùn)

136199 Eris (trước đây được gọi là 2003 UB313, biểu tượng: ⯰) là hành tinh lùn lớn nhất trong Thái Dương hệ và là thiên thể thứ 11 quay quanh Mặt Trời (tính theo khoảng cách, không kể vành đai Kuiper và các vệ tinh tự nhiên). Đầu tiên, Eris được nhận diện là thiên thể ngoài Hải Vương tinh (TNO) mà các nhà thiên văn California tại đài thiên văn trên đỉnh Palomar miêu tả là "lớn hơn rõ rệt" so với Sao Diêm Vương nhưng hiện nay điều này còn chưa chắc chắn. Cho đến khi định nghĩa này được đưa ra thì IAU vẫn tiếp tục coi mọi thiên thể được phát hiện ở khoảng cách xa hơn 40 AU như là một phần của quần thể ngoài Hải Vương Tinh nói chung [http://www.iau.org/IAU/FAQ/2003_UB313.html (xem ở đây)] .

Chủ nhiệm của nhóm công tác của IAU trong việc xác định thuật ngữ hành tinh đã cam kết là Diêm Vương Tinh vẫn giữ sự phân loại hiện nay của nó do các lý do lịch sử, và không có gì khác nữa được gọi là [http://news.ft.com/cms/s/0b5d85ec-1697-11da-8081-00000e2511c8.html hành tinh] . Quan điểm này cũng được ít nhất là một thành viên khác của nhóm [http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?file=/c/a/2005/08/08/MNGU5E4K2Q1.DTL chia sẻ]

Tên gọi

Thiên thể ban đầu có tên gọi sơ bộ là 2003 UB313, đã được đảm bảo một cách tự động theo các quy tắc đặt tên của IAU cho các hành tinh nhỏ. Bước tiếp theo trong việc xác định thiên thể này sẽ là việc kiểm tra bên ngoài về quỹ đạo của nó và đặt cho nó một cái tên vĩnh cửu. 2003 UB313 cũng được xem xét như các tiểu hành tinh khác, những người phát hiện ra nó sẽ có đặc quyền đưa ra tên gọi trong vòng 10 năm kể từ khi đánh số vĩnh cửu cho nó, tuân theo sự phê chuẩn của [http://www.ss.astro.umd.edu/IAU/csbn/ Ủy ban danh pháp cho các thiên thể nhỏ] của IAU Phần III. Theo các quy tắc của IAU, các TNO càn phải đặt tên theo tên vị thần sáng tạo, với ngoại lệ duy nhất cho các thiên thể giống như Diêm Vương Tinh, được đặt tên theo tên của các vị thần âm phủ.

Khả năng phân loại thiên thể này như là một hành tinh chính, tuy thế, có thể được thúc đẩy tốt bởi sự chậm trễ trong việc tiến hành các bước, thời gian và các thủ tục chấp nhận giống như các thứ đã áp dụng cho các sao chổi và các tiểu hành tinh. IAU đã ra một thông báo ngắn liên quan tới tên gọi cho 2003 UB313, chỉ ra rằng thiên thể này sẽ không được đặt tên cho đến khi người ta quyết định nó có phải là hành tinh hay không.[http://www.iau.org/IAU/FAQ/2003_UB313.html]

Các nhà phát hiện đã đệ trình tên gọi của họ cho 2003 UB313, mà theo quy tắc của IAU nó không thể phơi bày một cách công khai. Đội của Brown đã vi phạm quy tắc này trong năm 2003 khi họ thông báo tên gọi "Sedna" cho một tiểu hành tinh trước khi nó được chính thức chấp nhận, đã dấy lên sự chỉ trích trong cộng đồng thiên văn; IAU sau đó đã nới lỏng các quy tắc và cho phép trình tự xúc tiến đối với các phát hiện chính yếu mới [http://cfa-www.harvard.edu/mpec/K04/K04S73.html]. Trang Web URL sử dụng tên gọi "Hành tinh Lila" (lấy theo tên của cô con gái mới sinh của Michael Brown, Lilah), và đội các nhà thiên văn này cũng đã gọi một cách hình thức thiên thể này là Xena, lấy theo tên của phim truyền hình Xena: Nữ chúa chiến tranh, nhưng chẳng có tên gọi nào trong số này đã được đệ trình tới IAU.

Hai ngày sau khi thông báo về phát hiện, Brown đã thảo luận các ý tưởng của nhóm ông về tên gọi cho thiên thể trên website riêng: :"Nếu thiên thể nằm trong các quy tắc cho các thiên thể vành đai Kuiper khác, thì nó cần phải được đặt tên theo một nhân vật nào đó trong thần thoại sáng tạo. Chúng tôi đã quyết định cố gắng tuân theo quy tắc này. [...] Một trong những tên gọi cụ thể phù hợp nhất có thể là Persephone. Trong thần thoại Hy Lạp Persephone là người vợ (do bắt cóc) của Hades (Thần Pluto (Diêm Vương) theo thần thoại La Mã) mỗi năm sáu tháng ở dưới âm phủ. Tiếng khóc của mẹ nàng là Demeter sinh ra cái chết của mùa đông. Hành tinh mới nằm trên quỹ đạo mà có thể miêu tả tương tự; một nửa thời gian ở gần Pluto và một nửa thời gian thì ở xa. Đáng buồn là tên gọi Persephone đã được sử dụng năm 1895 như là tên gọi của tiểu hành tinh đã biết thứ 399. Truyện tương tự có thể kể gần như với bất kỳ thần Hy Lạp hay La Mã nào [...] Thật may là thế giới có nhiều tín ngưỡng huyền thoại và tinh thần. Trong quá khứ chúng ta đã đặt tên các thiên thể vành đai Kuiper theo tên thổ dân Mỹ, Inuit và các [tiểu] thần La Mã. Tên gọi mới mà chúng tôi đề nghị được đưa ra theo một tín ngưỡng khác." [http://www.gps.caltech.edu/~mbrown/planetlila/]

Ông cũng bổ sung thêm rằng IAU đã không vô tư khi đề cập đến thiên thể này và thậm chí ủy ban cần phải chịu trách nhiệm như thế nào trước việc phê chuẩn tên gọi của nó. Ủy ban theo dõi các hành tinh chính đã đề nghị là nếu thiên thể này được phân loại như là một hành tinh chính, việc đặt tên phải tuân theo truyền thống Hy Lạp-La Mã cho các hành tinh. Brown đã chỉ ra trong bài báo gần đây [http://www.pasadenastarnews.com/Stories/0,1413.206~22097~3009692,00.html] rằng ông có thể đề nghị tên gọi Persephone nếu truyền thống này được duy trì, mặc dù một thực tế là tên gọi này đã được trao cho tiểu hành tinh thứ 399 đã biết.

Cho đến ngày 6 tháng 9 năm 2006, đội khám phá đã đề xuất tên gọi Eris. Bảy ngày sau đó, tên gọi này được IAU chính thức chấp nhận.

Quỹ đạo

phải|Vị trí của 2003 UB313 (Eris) vào ngày [[29 tháng 7 năm 2005. Bên trái là quan sát từ "phía trên" của mặt phẳng của hệ mặt trời, bên phải lào quan sát từ "phía trước". Màu xanh lam sẫm chỉ ra phần quỹ đạo nằm dưới mặt phẳng hoàng đạo. Cũng chỉ ra cả Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh.]]

Eris có chu kỳ quỹ đạo 557 năm, và hiện nay đang nằm gần như ở khoảng cách cực đại của nó tới Mặt Trời (điểm viễn nhật). Hiện tại nó là thiên thể xa nhất đã biết của hệ Mặt Trời với khoảng cách tới Mặt Trời là 97 AU, mặc dù có khoảng 40 TNO đã biết (nổi tiếng nhất là 2000 OO67 và Sedna), mà hiện tại nằm gần với Mặt Trời hơn Eris lại có khoảng cách quỹ đạo trung bình lớn hơn của nó [http://cfa-www.harvard.edu/iau/lists/Centaurs.html].

Giống như Diêm Vương Tinh, quỹ đạo của nó có độ lệch tâm cao và sẽ đưa nó tới khoảng cách khoảng 35 AU với Mặt Trời khi nó ở điểm cận nhật (Khoảng cách của Diêm Vương Tinh tới Mặt Trời là 29 tới 49,5 AU, trong khi Hải Vương Tinh chỉ quay trong quỹ đạo trên 30 AU). Không giống như các hành tinh có đất và các hành tinh khí khổng lồ, mà quỹ đạo của chúng đều nằm trên gần như một mặt phẳng giống như Trái Đất, quỹ đạo của Eris là rất nghiêng —nó nghiêng một góc khoảng 44 độ so với mặt phẳng hoàng đạo.

Thiên thể mới này hiện nay có độ sáng biểu kiến khoảng 19, làm cho nó đủ sáng để có thể phát hiện được bằng các kính thiên văn nghiệp dư. Kính thiên văn với thấu kính 8" hay gương và CCD có thể chụp ảnh Eris trong bầu trời đen sẫm (ví dụ về ảnh nghiệp dư của Eris, xem [http://www.moonglow.net/ccd/pictures/pc/index.html#tnos]). Nguyên nhân mà nó không được thông báo cho đến tận bây giờ là do quỹ đạo rất dốc của nó: phần lớn các nhà tìm kiếm các thiên thể lớn nằm mé ngoài hệ mặt trời tập trung vào mặt phẳng hoàng đạo, mà ở đó phần lớn vật chất của hệ mặt trời được tìm thấy.

Kích thước

nhỏ|phải|So sánh kích thước Eris với các thiên thể cùng loại khác trong vành đai Kuiper

Độ sáng của thiên thể trong hệ Mặt Trời phụ thuộc vào kích thước của nó cũng như lượng ánh sáng mà nó phản xạ (suất phản chiếu của nó). Nếu như khoảng cách tới thiên thể và suất phản chiếu của nó đã biết, thì bán kính có thể dễ dàng xác định từ độ sáng biểu kiến của nó, với suất phản chiếu cao hơn đưa đến bán kính nhỏ hơn. Hiện tại, suất phản chiếu của Eris là không rõ, và vì thế kích thước thực sự của nó cũng chưa thể xác định. Tuy nhiên, các nhà thiên văn đã tính toán rằngt thậm chí nếu nó có phản xạ toàn bộ ánh sáng mà nó nhận được (tương ứng với suất phản chiếu cực đại 1,0 hay 100%) thì nó vẫn lớn cỡ như Diêm Vương Tinh (2.390 km). Trên thực tế, suất phản chiếu của nó gần như chắc chắn nhỏ hơn 1,0 vì thế thiên thể mới có lẽ là lớn hơn Diêm Vương Tinh. Dự đoán tốt nhất hiện nay coi nó có suất phản chiếu tương tự như Diêm Vương Tinh, điều đó có nghĩa là khoảng 0,6 hay tương ứng với đường kính 2.900 km.

Các quan sát của kính thiên văn vũ trụ Spitzer có thể đưa ra giới hạn trên trong kích thước của Eris. Lượt quan sát đầu tiên đã thất bại trong việc phát hiện thiên thể mới, kết quả mà nó thông báo ban đầu chỉ ra giới hạn trên là khoảng 3.500 km, nhưng sau đó đã bị phát hiện là do sai sót kỹ thuật [http://www.spitzer.caltech.edu/Media/happenings/20050807/] , vì thế ước tính giới hạn trên của nó là khoảng 5.000 km vẫn chưa bị bỏ đi. Các quan sát mới diễn ra trong ngày 23 tháng 8 và 25 tháng 8 năm 2005 và hiện nay đang được phân tích [http://www.spitzer.caltech.edu/Media/happenings/20050915/] .

Để xác định tốt hơn bán kính của Eris, tổ phát hiện được cho thời gian quan sát trên Kính thiên văn vũ trụ Hubble (HST). Ở khoảng cách 97 AU, một thiên thể có bán kính khoảng 3.000 km sẽ có kích thước góc vào khoảng 40 miligiây, nó có thể đo được nhờ HST: mặc dù phân tích các thiên thể nhỏ như thế nằm ở mức giới hạn của Hubble, các công nghệ xử lý ảnh phức tạp như giải xoắn có thể sử dụng để đo các kích thước góc như thế khá chính xác. Trước đây tổ tìm kiếm cũng đã từng áp dụng công nghệ này đối với 50000 Quaoar, sử dụng ACS để đo trực tiếp bán kính của nó.

Bề mặt

Phổ hồng ngoại của Eris (chú thích màu đỏ), so sánh với phổ của Diêm Vương Tinh (chú thích màu đen), chỉ ra sự tương tự của hai thiên thể. Các mũi tên biểu thị các vạch hấp thụ [[mêtan.]]

Đội tìm kiếm đã tuân theo sự xác định ban đầu của họ về Eris với các quan sát bằng kính quang phổ thực hiện trên Kính thiên văn Gemini Bắc 8 m tại Hawaii ngày 25 tháng 1 năm 2005. Ánh sáng hồng ngoại từ thiên thể cho thấy sự hiện diện của băng mêtan, chỉ ra rằng bề mặt của Eris là tương tự như của Diêm Vương Tinh, là TNO duy nhất đã biết đến nay là có mêtan. Vệ tinh của Hải Vương Tinh Triton có lẽ là có liên quan tới các thiên thể vành đai Kuiper, và cũng có mêtan trên bề mặt nó.

Không giống như Diêm Vương Tinh và Triton có ánh đỏ, Eris xuất hiện gần như là có màu xám. Màu ánh đỏ của Diêm Vương Tinh có lẽ là do các trầm tích của tholin trên bề mặt nó, và ở đâu các trầm tích này làm sẫm màu bề mặt thì ở đó suất phản chiếu thấp dẫn tới nhiệt độ cao hơn và làm cho mêtan bay hơi. Ngược lại, Eris là đủ xa từ Mặt Trời đến mức mêtan có thể ngưng tụ trên bề mặt nó thậm chí khi suất phản chiếu rất thấp. Sự ngưng tụ của mêtan đồng đều trên bề mặt đã làm giảm độ tương phản và có thể che phủ lên bất kỳ một trầm tích của tholin có màu đỏ nào.

Mêtan là một chất dễ bay hơi và sự hiện diện của nó chỉ ra rằng hoặc là Eris luôn luôn nằm ở khoảng cách rất xa của hệ Mặt Trời ở đó nó đủ lạnh để lớp băng mêtan tồn tại, hoặc là nó có nguồn mêtan bên trong để bổ sung cho khí đã thoát ra ngoài khí quyển của nó.Điều này ngược lại với các quan sát của một thiên thể vành đai Kuiper khác cũng mới phát hiện gần đây, Haumea, ở đó có sự hiện diện của nước đá chứ không phải mêtan.

Vệ tinh

nhỏ|trái|Eris và Dysnomia nhỏ|phải|Eris và Dysnomia Trong năm 2005, đội quang học thích ứng tại đài thiên văn Keck ở Hawaii tiến hành quan sát 4 thiên thể sáng nhất của vành đai Kuiper (Diêm Vương Tinh, Makemake, Haumea, và Eris), sử dụng hệ thống quang học thích ứng với sao laze định hướng trang bị mới nhất. Các quan sát thực hiện vào ngày 10 tháng 9 cho thấy có một vệ tinh quay quanh Eris, được tạm thời đặt tên là S/2005 (2003 UB313) 1. Để gắn với tên "Xena" đã sử dụng cho 2003 UB313, vệ tinh này còn được các nhà phát hiện gọi là Gabrielle, lấy theo tên của người bạn của nữ chúa chiến binh.

Vệ tinh này mờ hơn Eris khoảng 60 lần, và đường kính của nó ước tính khoảng 8 lần nhỏ hơn. Chu kỳ quỹ đạo của nó hiện nay tính sơ bộ là khoảng 2 tuần, các quan sát tiếp theo sẽ cho phép đo đạc chính xác hơn. Khi các nhà thiên văn biết chu kỳ và bán trục chính của quỹ đạo vệ tinh thì họ sẽ có khả năng xác định khối lượng của cả hệ thống. Cùng với việc đặt tên Eris, vê tinh này được đặt tên là Dysnomia.

Các nhà thiên văn hiện nay biết rằng 3 trong số 4 thiên thể vành đai Kuiper sáng nhất có vệ tinh, trong khi các thành viên mờ hơn của vành đai chỉ khoảng 10% là đã biết có vệ tinh. Điều này được tin là các va chạm giữa các KBO lớn là thường xuyên trong quá khứ. Các va chạm giữa các thiên thể kích thước khoảng 1000 km có thể phát tán ra một lượng lớn vật chất để sau đó chúng kết hợp lại thành vệ tinh. Cơ chế tương tự được coi là đã dẫn tới sự hình thành của vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất là Mặt Trăng khi Trái Đất đã bị va chạm với một thiên thể khổng lồ trong thời kỳ lịch sử đầu tiên của Hệ Mặt Trời.

Tham chiếu

* Brown M.E., Trujillo C.A., Rabinowitz D.L. (2005), _Discovery of a planetary-sized object in the scattered Kuiper belt_, Astrophysical Journal Letters, submitted * Brown M.E., van Dam M.A., Bouchez A.H. _et all_ (2005), _Satellites of the largest Kuiper belt objects_, Astrophysical Journal Letters, submitted * Gomes R.S., Gallardo T, Fernández J.A., Brunini A. (2005), _On the origin of the High-Perihelion Scattered Disk: the role of the Kozai mechanism and mean motion resonances_, Celestial Mechanics and Dynamical Astronomy, v. 91, p. 109-129
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**136199 Eris** (trước đây được gọi là **2003 UB313**, biểu tượng: ⯰) là hành tinh lùn lớn nhất trong Thái Dương hệ và là thiên thể thứ 11 quay quanh Mặt Trời (tính theo khoảng
Hình vẽ [[Sao Diêm Vương (đằng sau) và vệ tinh tự nhiên Charon (đằng trước). Tuy đã từng được coi là một hành tinh từ năm 1930, đến năm 2006 Sao Diêm Vương đã bị
phải|nhỏ|350x350px|Biểu đồ Euler biểu diễn các loại thiên thể trong Hệ Mặt Trời. Liên minh Thiên văn Quốc tế (IAU) đã định nghĩa vào tháng 8 năm 2006 rằng, trong Hệ Mặt Trời, một hành
nhỏ| So sánh trực quan về kích thước của [[Trái Đất và Mặt Trăng (phía trên bên phải) và Sao Diêm Vương - Charon (phía dưới bên phải)]] Trong thiên văn học, **hành tinh đôi**
Percival Lowell, người đưa ra giả thuyết về **Hành tinh X** **Hành tinh X** là một hành tinh giả thuyết lớn vận động theo một quỹ đạo nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương.
Hành tinh vòng trong Hệ Mặt trời. **Hành tinh đất đá** (hay còn gọi là **hành tinh kiểu Trái Đất**, tuy rằng không nhất thiết phải có thủy quyển) là các hành tinh có cấu
**Hành tinh thứ mười một** (thuộc Hệ Mặt trời) có thể đề cập đến Vesta, thiên thể thứ mười một được đặt tên là một hành tinh, sau này được phân loại lại thành một
Một **hành tinh băng** là một loại ngoại hành tinh trên lý thuyết với bề mặt băng giá gồm các chất bay hơi như nước, amonia và metan. Các hành tinh băng bao gồm một
**Chadwick A. "Chad" Trujillo** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1973) là một nhà thiên văn học người Mỹ, là người đã khám phá nhiều tiểu hành tinh và là đồng khám phá ra Eris,
**Michael E. Brown** (sinh 5 tháng 6 năm 1965) là một nhà thiên văn học người Mỹ, từng là giáo sư ngành khoa học hành tinh tại Học viện Công nghệ California (Caltech) từ năm
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Sedna** (định danh hành tinh vi hình: **90377 Sedna**; biểu tượng: ⯲) là một thiên thể nằm ở rất xa trong Hệ Mặt Trời, ngoài quỹ đạo Sao Hải Vương và có thể xếp vào
**225088 Cung Công** (tiếng Anh: 225088 Gonggong), định danh tạm thời , là một ứng cử viên hành tinh lùn của Hệ Mặt Trời, và là thành viên của đĩa phân tán ngoài Sao Hải
**50000 Quaoar** là một thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương dạng đất đá nằm trong vành đai Kuiper. Nó được phát hiện năm 2002 và được đặt tên tạm thời là 2002LM60. Sau này
**Haumea**, định danh hành tinh vi hình là **(136108) Haumea** (biểu tượng: 🝻), là một hành tinh lùn đã biết có vị trí nằm ở bên ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương., tương ứng
Các thiên thể phía ngoài Hải Vương tinh chủ yếu Các **plutoid** là những hành tinh lùn nằm trên quỹ đạo quay xung quanh Mặt Trời, nhưng ở xa hơn Hải Vương tinh (hành tinh
**Dysnomia** (phiên âm /dɪsˈnoʊmiə/) tên quốc tế **(136199) Eris I Dysnomia**, là vệ tinh duy nhất được phát hiện đến nay của Eris. Nó được phát hiện năm 2005 do Mike Brown sử dụng hệ
**Makemake** ( ) hay trang trọng gọi là **(136472) Makemake** (biểu tượng: 🝼), là hành tinh lùn lớn thứ 3 trong hệ Mặt Trời và là một trong 2 vật thể tại vòng đai Kuiper (KBO)
nhỏ|299x299px| Một số vệ tinh tự nhiên (với quy mô [[Trái Đất). 19 vệ tinh đủ lớn để có hình cầu và chỉ Titan mới có bầu khí quyển riêng. ]] Các vệ tinh tự
**David Lincoln Rabinowitz** (sinh 1960) là một nhà thiên văn học người Mỹ, người khám phá tiểu hành tinh và là nhà nghiên cứu tại Đại học Yale. Ông đã xây dựng camera Cảm biến
**Triton** là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của Sao Hải Vương và là vệ tinh đầu tiên của Sao Hải Vương được phát hiện. Nó được khám phá vào ngày 10 tháng 10 năm
**Kính thiên văn Samuel Oschin**, còn được gọi là **Oschin Schmidt**, là một kính thiên văn Schmidt kích cỡ tại Đài thiên văn Palomar ở phía bắc Hạt San Diego, California. Nó bao gồm một
**Callirrhoe** ( kə-LIRR -o-ee; Hy Lạp: _Καλλιρρόη),_ còn được gọi là **** là một trong các vệ tinh tự nhiên bên ngoài của sao Mộc. Đó là một mặt trăng dị hình quay quanh theo
**Vật thể nhỏ trong Hệ Mặt Trời** (**SSSB**) là một vật thể trong Hệ Mặt Trời không phải là một hành tinh, một hành tinh lùn, cũng không phải là một vệ tinh tự nhiên.
**Eris** (tiếng Hy Lạp: **Ἔρις**, "Xung đột") là nữ thần xung đột, bất hòa. Tương ứng La Mã là **Discordia**. Vị thần đối nghịch của bà trong thần thoại Hy Lạp là nữ thần Harmonia,
"**Dọn sạch miền lân cận** quanh quỹ đạo của nó" là một tiêu chuẩn để một thiên thể được xem là một hành tinh trong hệ mặt trời. Đây là một trong số ba tiêu
**** là một thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương và là một hệ hành tinh vi hình đôi nằm tại đĩa phân tán (giống Eris). ## Vệ tinh tự nhiên trái|nhỏ|Hình ảnh động của
nhỏ|300x300px| [[Eris (hành tinh lùn)|Eris, vật thể đĩa phân tán lớn nhất được biết đến (ở giữa) và vệ tinh Dysnomia của nó (bên trái của vật thể) ]] **Đĩa phân tán** (hoặc **đĩa rải
Ngày **5 tháng 1** là ngày thứ 5 trong lịch Gregory. Còn 360 ngày trong năm (361 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *269 – Giáo hoàng Fêlix I tựu nhiệm *1757 – Quốc
**Thảm họa Nibiru** là cuộc chạm trán được cho là thảm họa giữa Trái đất và một vật thể hành tinh lớn (có thể là va chạm hoặc suýt xảy ra) mà một số nhóm
nhỏ|Haumea và các vệ tinh của nó Haumea là hành tinh đầu tiên trong số các hành tinh lùn được IAU công nhận hiện nay được phát hiện kể từ Sao Diêm Vương năm 1930.
nhỏ|Một số thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương (TNO) có kích thước lớn. **Thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương** (hay còn gọi là _thiên thể vành đai Kuiper_, viết tắt tiếng Anh **KBO**)
**Danh sách vật thể trong Hệ Mặt Trời** theo thứ tự quỹ đạo khoảng cách tính từ Mặt Trời ra: ***Mặt Trời, một ngôi sao vàng G2V** ## Các hành tinh vòng trong và Hành
nhỏ|Hình ảnh chụp vào [[Tháng bảy|tháng 7 năm 1997 cho thấy sao sáng Aldebaran vừa xuất hiện trở lại ở phần bóng tối của trăng lưỡi liềm sau khi bị che khuất vào vài phút
**Ngoại quyển** là khu vực cao nhất của bầu khí quyển Trái Đất (nghĩa là nó là giới hạn trên của khí quyển) khi nó dần dần biến thành khoảng trống của không gian. Không
nhỏ|[[Mimas (vệ tinh)|Mimas, vệ tinh có kích thước nhỏ nhất trong Hệ Mặt Trời có dạng hình cầu.]]Đây là **danh sách các vật thể tròn nhờ lực hấp dẫn** của Hệ Mặt Trời, là những
**_Voyager 2_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 20 tháng 8 năm 1977, để nghiên cứu các hành tinh bên ngoài và không gian giữa các vì sao bên ngoài
nhỏ|Quỹ đạo của 2002 TX300 **(55636) 2002 TX300** là một thiên thể ngoài Hải Vương tinh. Nó là một thiên thể sáng ở ngoài rìa Hệ Mặt Trời. Thiên thể này được ước lượng có
nhỏ|Phân bố những TNO Tính đến nay, đã có rất nhiều thiên thể ngoài Hải Vương tinh được khám phá. Danh sách sau đây liệt kê một vài vật thể đã biết, bao gồm cả
__NOTOC__ Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 9 năm 2006. ## Thứ sáu, ngày 1 tháng 9
không|Vicente Fox
*Vì phản đối kết quả
Ngày **29 tháng 7** là ngày thứ 210 (211 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 155 ngày trong năm. ## Sự kiện *238 – Cận vệ của Hoàng đế La Mã xông vào cung
**Sao chổi lớn năm 1861**, mã hóa số chính thức **C/1861 J1** và **1861 II**, là một sao chổi không định kỳ có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong khoảng 3 tháng. Nó được
**Táo tây**, còn gọi là **bôm** (phiên âm từ tiếng Pháp: _pomme_), là một loại quả ăn được từ **cây táo tây** (_Malus domestica_). Táo tây được trồng trên khắp thế giới và là loài