✨Người đồng tính nữ
thumb|[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene bởi Simeon Solomon, 1864]]
thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào nhau. Trong sinh học, biểu tượng đơn lẻ thể hiện giới tính nữ.|alt=]] Đồng tính nữ () là người một người phụ nữ bị thu hút bởi người cùng giới. Khái niệm này cũng được dùng để chỉ bản dạng tính dục hoặc hành vi tình dục mà không trong mối tương quan nào với xu hướng tính dục, hoặc như một tính từ để làm rõ đặc điểm hoặc liên kết các danh từ với đồng tính nữ hoặc sự thu hút với người cùng giới.
Việc sử dụng khái niệm "đồng tính nữ" để làm rõ sự khác biệt ở những phụ nữ có xu hướng tính dục chung nảy nở vào thế kỷ XX. Xuyên suốt lịch sử, phụ nữ đã không có quyền tự do hay độc lập như đàn ông để theo đuổi những mối quan hệ đồng tính, nhưng họ cũng không phải đối mặt với những hình phạt tàn khốc như đồng tính nam ở một số xã hội. Thay vào đó, những mối quan hệ đồng tính nữ thường được coi như là trò tiêu khiển, không được công nhận, không "đe doạ" như đồng tính nam, trừ khi một người trong đó có ý định đòi lấy những quyền lợi vốn thuộc về nam giới. Kết quả là, rất ít những tài liệu lịch sử có những miêu tả chính xác về cách mà đồng tính nữ được biểu lộ. Khi những nhà tình dục học đầu tiên vào thế kỷ XIX bắt đầu phân loại và miêu tả những hành vi đồng tính, bị cản trở bởi sự thiếu hiểu biết về đồng tính và tính dục của phụ nữ, họ đã phân đồng tính nữ vào nhóm những phụ nữ không tuân theo các vai trò giới của nữ giới. Họ được coi là có bệnh về tâm thần - điều đã được thay đổi từ sau cuối thế kỷ XX trong cộng đồng khoa học quốc tế.
Phụ nữ có những mối quan hệ đồng tính ở Châu Âu và Hoa Kỳ đã phản ứng lại sự phân biệt và đàn áp bằng cách, hoặc là giấu đi đời sống cá nhân của bản thân, hoặc là chấp nhận việc bị đẩy ra ngoài rìa xã hội và tạo ra một nhóm văn hóa và danh tính khác. Sau Thế chiến II, trong một thời kỳ của sự đàn áp, khi chính quyền thẳng tay ngược đãi những người đồng tính, phụ nữ đã tạo ra những mạng lưới để giao tiếp và giáo dục lẫn nhau. Giành được quyền tự do lớn hơn trong kinh tế và xã hội cho phép họ xác định được cách để gây dựng mối quan hệ và gia đình. Với làn sóng nữ quyền thứ hai và sự phát triển trong vốn hiểu biết về lịch sử và tính dục của phụ nữ vào cuối thế kỷ XX, định nghĩa của "đồng tính nữ" đã được mở rộng, dẫn tới những tranh cãi về việc sử dụng khái niệm này. Trong khi những nghiên cứu của Lisa M. Diamond coi ham muốn tình dục là yếu tố cốt lõi để định nghĩa đồng tính nữ, một số phụ nữ có những mối quan hệ đồng giới có hoạt động tình dục lại không muốn xác định bản thân là đồng tính, thậm chí là song tính. Ở một số phụ nữ khác, việc tự nhận định bản thân là đồng tính nữ có thể không tương ứng với xu hướng tính dục hay hành vi tình dục. Bản dạng tính dục không nhất thiết phải giống với xu hướng tính dục hay hành vi tình dục, xuất phát từ nhiều lý do, ví dụ như nỗi sợ hãi việc xác định xu hướng tính dục của bản thân trong một bối cảnh có sự ghê sợ người đồng tính.
Hình ảnh người đồng tính nữ được khắc họa trên phương tiện truyền thông gợi ý rằng phần lớn xã hội đã đồng thời cảm thấy tò mò và bị đe dọa bởi những người phụ nữ không tuân theo các vai trò giới, cũng như bị hấp dẫn và ghê sợ bởi những người phụ nữ có mối quan hệ tình cảm với phụ nữ khác. Phụ nữ tự xác định là đồng tính có cùng những trải nghiệm mà đã tạo nên một quan điểm tương đồng với căn tính sắc tộc: là những người đồng tính, họ được gắn kết bởi những trải nghiệm tương đồng khi đối mặt với sự phân biệt đối xử theo chủ nghĩa dị tính luyến ái và khả năng bị bỏ rơi bởi gia đình, bạn bè và rất nhiều người khác, bắt nguồn từ sự kỳ thị người đồng tính. Là phụ nữ, họ đối mặt với những lo ngại khác ngoài nam giới. Người đồng tính nữ đối mặt với những lo ngại riêng về sức khỏe thể chất hoặc tinh thần đến từ sự phân biệt đối xử, định kiến, và căng thẳng. Bối cảnh chính trị và thái độ xã hội cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành các mối quan hệ và gia đình của người đồng tính nữ nói chung.
Nguồn gốc và sự thay đổi của thuật ngữ
thumb|trái|alt=Painting of a woman dressed in Greek robes sitting on a marble bench with trees and water in the distance|[[Sappho ở Lesbos, được thể hiện trong bức tranh năm 1904 bởi John William Godward đã hình thành nên cho thuật ngữ lesbian hàm ý về ham muốn nhục dục giữa những người phụ nữ.]] Từ lesbian (đồng tính nữ) trong tiếng Anh bắt nguồn từ Lesbos - một hòn đảo Hy Lạp, quê hương của nhà thơ Sappho ở thế kỷ XVI TCN. Rất ít những bài thơ của Sappho còn được lưu trữ, nhưng những bài thơ còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy chủ đề chính trong thơ ca của bà: đời sống thường ngày của phụ nữ, những mối quan hệ của họ, và những nghi thức. Bà tập trung vào vẻ đẹp của phụ nữ và tuyên bố tình yêu của bà dành cho nữ giới. Trước những năm giữa thế kỷ XIX, từ lesbian (đồng tính nữ) đề cập tới những thứ có nguồn gốc hoặc những khía cạnh của Lesbos, trong đó bao gồm cả tên một loại rượu.
Trong tập thơ Sapphics năm 1866 của Algernon Charles Swinburne, từ "lesbian" xuất hiện hai lần, nhưng được viết hoa cả hai lần đó, và đều được dùng sau khi nhắc tới đảo Lesbos, và cũng có thể được dùng với ý nghĩa: "bắt nguồn từ đảo Lesbos". Năm 1875, George Saintsbury, trong bài viết về thơ ca của Baudelaire, đã nhắc tới "nghiên cứu về Lesbian" của ông, mà trong đó còn có cả thơ về "nhiệt huyết của Delphine", một bài thơ đơn thuần về tình yêu giữa hai người phụ nữ mà không hề nhắc tới đảo Lesbos, mặc dù một bài thơ khác trong đó với tựa đề "Lesbos", thì lại có. Việc sử dụng từ lesbianism để miêu tả mối quan hệ tình ái giữa những người phụ nữ đã xuất hiện trong một văn bản năm 1870. Năm 1890, thuật ngữ lesbian đã được sử dụng trong một cuốn từ điển về y khoa như một tính từ để miêu tả hành động cọ xát âm hộ (với nghĩa như "tình yêu đồng tính nữ"). Thuật ngữ lesbian, invert (đảo ngược) và đồng tính đã được sử dụng và có thể thay thế từ sapphist, sapphism (đồng tính nữ) vào đầu thế kỷ XX.
Sự phát triển trong kiến thức về y dược là một nhân tố đáng kể trong việc mở rộng nghĩa của thuật ngữ lesbian. Vào giữa thế kỷ XIX, những tác giả trong mảng y dược đã thử tìm cách để nhận dạng đồng tính nam, vốn được coi là một vấn đề xã hội nổi trội trong hầu hết các xã hội Tây phương. Trong khi phân loại những hành vi là dấu hiệu cho hiện tượng đảo ngược, theo cách gọi của nhà tính dục học Magnus Hirschfeld, các nhà nghiên cứu đã phân rõ những hành vi tính dục bình thường đối với nam và nữ giới, và từ đó cũng chỉ ra nam và nữ giới có thể khác biệt đến mức độ nào so với chuẩn nam tính và chuẩn nữ tính.
Văn học về đồng tính nữ có số lượng ít hơn rõ rệt so với đồng tính nam, bởi những chuyên gia về y học không coi đó là một vấn đề nổi trội. Trong một số trường hợp, sự tồn tại của khái niệm này không được biết tới. Tuy nhiên, nhà tính dục học Richard von Krafft-Ebing người Đức, và Havelock Ellis người Anh đã làm công việc phân nhóm cho sự thu hút cùng giới giữa phụ nữ thuộc vào loại sớm nhất và có giá trị lâu dài hơn. Trong đó, họ tiếp cận sự hấp dẫn này như một dạng của bệnh điên (nhận định của Ellis rằng đồng tính nữ là một bệnh lý đã không còn được tin tưởng trong thời điểm hiện tại). Krafft-Ebing coi đồng tính nữ (hoặc theo cách gọi của ông, "Uranism") là một bệnh lý tâm thần. Còn Ellis, bị ảnh hưởng bởi các bài viết của Krafft-Ebing, bất đồng với ý kiến rằng sự đảo ngược về tính dục là một tình trạng kéo dài suốt đời. Ellis tin rằng rất nhiều phụ nữ tự nhận là có tình cảm với người cùng giới đã thay đổi cảm nghĩ của họ về những mối quan hệ như vậy sau khi được trải nghiệm hôn nhân và một "cuộc sống thực tế".
Tuy nhiên, Ellis cũng thừa nhận sự tồn tại của những người "thực sự đảo ngược" - những người sẽ dành cả cuộc đời để theo đuổi những mối quan hệ tình ái với phụ nữ. Những người này là thành viên của một "giới tính thứ ba", họ từ chối tuân theo những khuôn mẫu về người phụ nữ: phụ thuộc, nữ tính và chỉ tập trung lo việc gia đình. Đảo ngược (invert) chỉ những vai trò giới đối lập, và liên quan tới đó là việc bị hấp dẫn bởi phụ nữ thay vì đàn ông; bởi phụ nữ trong thời kỳ Victoria được coi là không thể chủ động khởi đầu một mối quan hệ tình cảm, và phụ nữ làm như vậy với những người phụ nữ khác sẽ được coi là có những khao khát về tình dục nam tính.
Nghiên cứu của Krafft-Ebing và Ellis đã được đọc rộng rãi và góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về đồng tính nữ. Khẳng định của những nhà tình dục học rằng đồng tính luyến ái là một dị tật bẩm sinh đã được chấp nhận bởi hầu hết những người đồng tính nam. Điều này chỉ ra rằng những hành vi của họ không bị ảnh hưởng bởi, và cũng không nên được coi là một hành vi phạm tội theo như suy nghĩ của đa số. Do sự thiếu thốn về tài nguyên để miêu tả cảm xúc của bản thân, những người đồng tính chấp nhận việc bị quy chụp là khác biệt hay biến thái, và dùng chính cái mác ngoài vòng pháp luật ấy để hình thành nên những nhóm xã hội ở Paris và Berlin. Từ lesbian bắt đầu được sử dụng để nói về những thành phần của một nhóm văn hóa.
Những người đồng tính nữ, cụ thể là trong các nền văn hóa Tây phương, thường tự coi rằng bản thân có một danh tính có thể định nghĩa cho tính dục của cá nhân họ, cũng như là một thành viên trong một nhóm với những đặc điểm chung. Phụ nữ trong rất nhiều nền văn hóa xuyên suốt lịch sử đã có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, nhưng ít khi được coi là một phần trong một nhóm người hình thành dựa trên đối tượng mà họ có những mối quan hệ thể xác cùng. Bởi phụ nữ thường là những người yếu thế trong chính trị ở các nền văn hóa Tây phương, những khuôn mẫu y học về đồng tính được thêm vào đã trở thành nguyên nhân cho sự phát triển định danh của nhóm văn hóa.
Tính dục và bản dạng đồng tính nữ
thumb|phải|Lá cờ đồng tính nữ bao gồm một chiếc rìu [[labrys (hay rìu hai lưỡi) nằm trong một hình tam giác đen đảo ngược, đặt trên nền có sắc tím. Chiếc rìu labrys tượng trưng cho sức mạnh đồng tính nữ.|alt=]] thumb|phải|Lá cờ đồng tính nữ bắt nguồn từ thiết kế cờ Đồng tính nữ Son môi năm 2010. thumb|phải|Lá cờ cộng đồng đồng tính nữ được đưa lên mạng xã hội năm 2018, với sọc cam đậm tượng trưng cho [[biến thể về giới.]] Ý kiến cho rằng cần phải có những hoạt động tình dục giữa phụ nữ để định nghĩa một người đồng tính nữ hoặc một mối quan hệ đồng tính nữ vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Theo như tác giả theo phong trào nữ quyền, Naomi McCormick, tính dục của phụ nữ được dựng nên bởi nam giới, những người coi trải nghiệm tình dục với phụ nữ khác là cách chính để xác định xu hướng tính dục là đồng tính nữ. Tuy nhiêm, cách xác định tương tự lại không cần thiết khi định danh một phụ nữ dị tính. McCormick đã phát biểu rằng, sự kết nối về cảm xúc, tâm lý và tư tưởng giữa những người phụ nữ mới là quan trọng, chứ không phải nằm ở tình dục. Tuy nhiên, vào những năm 1980, một phong trào đáng chú ý đã từ chối việc loại bỏ các yếu tố tình dục về những người đồng tính nữ được khởi xướng bởi những người theo chủ nghĩa nữ quyền truyền thống, gây ra một cuộc tranh cãi nảy lửa, được gọi là cuộc chiến tính dục của nữ quyền. Các vai butch và femme quay trở lại, dù không còn được tuân theo một cách chặt chẽ như trong những năm 1950. Chúng trở thành một xu hướng khi chọn lựa biểu hiện giới cho nhiều phụ nữ trong những năm 1990. Một lần nữa, phụ nữ cảm thấy an toàn hơn khi khẳng định rằng bản thân có nhiều trải nghiệm tình dục, và sự linh hoạt về tính dục dần được chấp nhận.
Cuộc tranh cãi tập trung vào một hiện tượng được đặt tên bởi nhà tình duc học Pepper Schwartz năm 1983. Schwartz phát hiện ra rằng những cặp đôi đồng tính nữ đã bên nhau nhiều năm có ít tương tác về tình dục hơn những cặp đôi dị tính hoặc đồng tính nam, và gọi việc này là "sự đóng băng hoạt động tình dục ở đồng tính nữ" (lesbian bed death). Tuy nhiên, những người đồng tính nữ phản đối định nghĩa về tương tác tình dục trong nghiên cứu này, và chỉ ra một số yếu tố khác, ví dụ như những kết nối sâu sắc vốn đã tồn tại giữa phụ nữ, khiến cho việc tương tác tình dục thường xuyên trở nên dư thừa, hay xu hướng linh hoạt về tính dục của phụ nữ khiến họ chuyển từ dị tính sang song tính sang đồng tính nhiều lần trong đời - hoặc hoàn toàn từ chối việc đặt nhãn hiệu. Những tranh cãi sau này cũng cho thấy rằng nghiên cứu ấy có khuyết điểm và đã không đại diện chính xác những tương tác tình dục giữa phụ nữ, hoặc tương tác tình dục giữa phụ nữ đã tăng kể từ năm 1983, bởi nhiều người đồng tính nữ cảm thấy tự do hơn trong việc thể hiện tính dục của bản thân.
Nhiều thảo luận sau này về giới tính và xu hướng tính dục đã ảnh hưởng cách mà rất nhiều phụ nữ đặt nhãn hoặc có cái nhìn về chính mình. Hầu hết mọi người trong các nền văn hóa Tây phương được dạy rằng dị tính là một trạng thái bẩm sinh của tất cả mọi người. Khi một người phụ nữ nhận ra sự thu hút về mặt tình cảm và tình dục với một người phụ nữ khác, nó có thể gây ra một "cuộc khủng hoảng hiện sinh". Rất nhiều người phải trải qua điều này để chấp nhận danh tính là một người đồng tính nữ, thử thách những định kiến mà xã hội đã dựng nên về người đồng tính, để học cách sống trong một nhóm văn hóa đồng tính. Người đồng tính nữ trong các nền văn hóa Tây phương thường có chung một danh tính khá tương đồng với thứ được xây dựng dựa trên sắc tộc: họ có chung một lịch sử, chung nhóm văn hóa, có những trải nghiệm tương đồng với sự phân biệt đối xử, điều đã khiến rất nhiều người đồng tính nữ từ chối các nguyên tắc của dị tính. Điều này là độc nhất so với đồng tính nam hoặc dị tính nữ, và thường gây ra căng thẳng với phụ nữ song tính.
Những nhà nghiên cứu, bao gồm cả các nhà khoa học về xã hội, phát biểu rằng hành vi và bản dạng xu hướng tính dục thường không tương đồng: phụ nữ có thể gắn nhãn bản thân là dị tính những có quan hệ với phụ nữ, đồng tính nữ tự định danh vẫn có thể có quan hệ tình dục với nam giới, hoặc phụ nữ có thể nhận thấy rằng điều mà họ từng coi là một danh tính tính dục bất biến đã dần biến đổi theo thời gian. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Lisa M. Diamond cùng các cộng sự đã cho thấy rằng "phụ nữ đồng tính hoặc linh hoạt về tính dục có hành vi tình dục giới hạn hơn so với phụ nữ song tính", và rằng "đồng tính nữ dường như hướng về những sự thu hút và hành vi chỉ có riêng ở người đồng tính." Nó cũng cho thấy rằng phụ nữ đồng tính "thường thể hiện một xu hướng ‘lõi’ ở đồng tính nữ". Những nhà nghiên cứu cho rằng không có một định nghĩa tiêu chuẩn nào cho đồng tính nữ, bởi "thuật ngữ này đã được sử dụng để chỉ những phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ, dù là chỉ riêng với phụ nữ hay còn quan hệ với đàn ông (tức hành vi), phụ nữ xác định bản thân mình là đồng tính (tức bản dạng), và phụ nữ có sự ưu tiên cho việc quan hệ với phụ nữ (tức khao khát hoặc sự thu hút)"; và rằng "việc thiếu đi một định nghĩa tiêu chuẩn cho đồng tính nữ và những câu hỏi tiêu chuẩn để đánh giá rằng ai là đồng tính nữ đã khiến cho việc định nghĩa cộng đồng phụ nữ đồng tính trở nên khó khăn." Địa điểm và cách thức lấy các mẫu nghiên cứu cũng có thể ảnh hưởng đến định nghĩa này. Năm 1989, một nhóm nghiên cứu tên là Nhóm Lịch sử Đồng tính nữ đã viết:
Bởi vì xã hội có xu hướng không muốn thừa nhận sự tồn tại của đồng tính nữ, nên những nhà sử học hoặc những người viết tiểu sử sẽ cần sự chắc chắn cực kỳ cao trước khi được phép sử dụng nhãn tính dục này. Những dấu hiệu được coi là đầy đủ trong bất kì trường hợp nào khác đều sẽ bị coi là còn thiếu sót ở đây. Một người phụ nữ chưa từng kết hôn, sống với một người phụ nữ khác, có hầu hết bạn bè đều là phụ nữ, hoặc đã chuyển tới sống trong một cộng đồng của người đồng tính nữ hoặc đồng tính nói chung, đều có thể là phụ nữ đồng tính. Nhưng những dấu hiệu này không thể là ‘bằng chứng’. Những nhà phê bình muốn một chứng cứ không thể bàn cãi về hoạt động tình dục giữa phụ nữ. Điều này gần như không thể được tìm thấy.
Tính dục của phụ nữ thường không được thể hiện đầy đủ trong các văn bản và tài liệu. Cho đến rất gần đây, hầu hết các tài liệu về tính dục của phụ nữ đều được viết bởi nam giới, trong bối cảnh là cách hiểu của nam giới, và liên quan tới những mối liên kết của phụ nữ tới nam giới - chẳng hạn như vợ, con gái, hoặc mẹ của họ. Những sự thể hiện về tính dục của nữ giới thông qua nghệ thuật thường đề xuất những xu hướng hoặc sự hình dung trong một phạm vi rộng lớn, từ đó đưa ra cho các nhà sử học những gợi ý về phạm vi hay mức độ được chấp nhận với những mối quan hệ tình ái giữa phụ nữ.
Hy Lạp và La Mã cổ đại
Phụ nữ ở Hy Lạp cổ đại được tách riêng ra cùng với nhau, và nam giới cũng được phân tách tương tự. Trong một xã hội cùng giới tính như vậy, những mối quan hệ tình ái và tình dục giữa nam giới rất phổ biến và được lưu trữ lại trong văn học, nghệ thuật và triết học. Tuy nhiên, các yếu tố đồng tính giữa phụ nữ Hy Lạp rất ít được ghi lại. Có một vài suy đoán rằng những mối quan hệ tương tự cũng tồn tại giữa những phụ nữ trưởng thành và phụ nữ trẻ - nhà thơ Alcman đã dùng thuật ngữ aitis, như một dạng nữ của từ aites - một thuật ngữ chính thức cho người trẻ hơn trong một mối quan hệ đồng giới giữa một người trưởng thành và một người trẻ. Aristophanes, trong cuốn Symposium của Symposium, đã nhắc đến những người phụ nữ bị thu hút về tình cảm với những phụ nữ khác, nhưng đã sử dụng thuật ngữ trepesthai thay vì eros, một từ còn được áp dụng với những mối quan hệ tình ái khác giữa nam giới hoặc giữa nam và nữ.
Sử gia Nancy Rabinowitz đưa ra luận điểm rằng hình ảnh trên những chiếc bình đỏ của Hy Lạp cổ đại thể hiện hình ảnh phụ nữ đặt tay quanh eo của một người phụ nữ khác, hoặc dựa vào vai của một phụ nữ khác, có thể được coi là cách thể hiện của một khao khát tình ái. Phần lớn cuộc sống thường ngày của phụ nữ Hy Lạp cổ đại không được biết tới, cụ thể là những biểu hiện về tính dục của họ. Mặc dù nam giới có những mối quan hệ với những người cùng giới trẻ tuổi hơn bên ngoài hôn nhân, không có một dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy phụ nữ được phép hay được khuyến khích tham gia vào các mối quan hệ đồng giới trước hay trong hôn nhân nếu tuân thủ được các nghĩa vụ trong cuộc hôn nhân ấy. Phụ nữ xuất hiện trong các sản phẩm gốm của Hy Lạp được khắc họa đầy cảm xúc, và trong những trường hợp chỉ xuất hiện phụ nữ, họ thường được khắc họa theo khuynh hướng tình ái: họ được miêu tả với hình ảnh đang tắm, đang đụng chạm vào cơ thể của nhau, với dương vật giả ở trong hoặc xung quanh những cảnh như vậy; và đôi khi xuất hiện những hình ảnh thường có khi miêu tả một cuộc hôn nhân dị tính hoặc sự quyến rũ trong một mối quan hệ đồng giới giữa người trưởng thành và người trẻ. Người ta vẫn chưa biết được những hình ảnh gợi dục này chỉ đơn thuần để thỏa mãn người xem, hay để khắc họa một khung cảnh có thực của cuộc sống. Rabinowitz viết rằng sự thiếu hứng thú với đời sống thường ngày và khuynh hướng tính dục của phụ nữ ở các nhà sử học thế kỷ XIX khi nghiên cứu về Hy Lạp bắt nguồn từ sự ưu tiên xã hội của chính họ. Bà cho rằng sự thiếu hứng thú này đã khiến lĩnh vực trên trở nên đơn thuần xoay quanh nam giới, và góp một phần trách nhiệm với sự thiếu hụt thông tin có sẵn về những chủ đề xoay quanh nữ giới ở Hy Lạp cổ đại.
Tương tự, phụ nữ ở La Mã cổ đại cũng là những đối tượng của định nghĩa về tính dục của nam giới. Những nghiên cứu ở thời điểm hiện tại nhận định rằng nam giới nhìn nhận đồng tính nữ với một thái độ thù địch. Họ coi những người phụ nữ tham gia vào các mối quan hệ tình dục với phụ nữ khác là người có những đặc điểm sinh học kỳ dị, và sẽ cố quan hệ thâm nhập với phụ nữ - đôi khi là đàn ông - bằng bộ phận âm vật "to đến mức quái dị". Theo như học giả James Butrica, đồng tính nữ đã thách thức không chỉ cách nhìn của một người đàn ông về bản thân anh ta với vai trò là người duy nhất có khả năng đem lại khoái cảm tình dục, mà còn cả những nền tảng cơ bản nhất của xã hội La Mã nam quyền. Không hề có một tài liệu lịch sử nào ghi lại về một người phụ nữ có bạn tình là một người phụ nữ khác.
Châu Âu đầu thời kì hiện đại
thumb|upright|Đồng tính nữ và [[lưỡng tính, như được mô tả ở đây trong một bức tranh chạm khắc trong khoảng năm 1690, là hai khái niệm vô cùng tương đồng trong thời kì Phục hưng.|alt=A front and back illustration of a Renaissance-era hermaphrodite showing a person with female facial features, breasts, and what appears to be a small penis or large clitoris. She wears a small hood and open robe tied multiple times around the legs. Where it opens in the front, the apparent rear appearance shows it to be perhaps a shell of some kind, as one with her body Two squares are missing from her the back of her head and torso. She has no buttocks.]]
Khác với đồng tính nam hay ngoại tình, đồng tính luyến ái nữ đã không vướng phải những phản ứng tiêu cực từ chính quyền tôn giáo hay lập pháp xuyên suốt lịch sử. Ở nước Anh, trong khi những hành vi kê gian giữa đàn ông, giữa đàn ông với phụ nữ, và giữa đàn ông với động vật sẽ bị xử tử, thì những văn bản y khoa và pháp lý lại không hề nhắc đến quan hệ tình dục giữa phụ nữ. Những điều luật chống lại đồng tính nữ xuất hiện sớm nhất ở Pháp năm 1270. Ở Tây Ban Nha, Ý, và Đế quốc La Mã Thần thánh, hành vi kê gian giữa phụ nữ đã được tính là một hành vi phi tự nhiên và có thể bị xử thiêu chết, mặc dù số lượng những trường hợp như vậy xảy ra là rất thấp.
Việc thi hành những điều luật như vậy xảy ra sớm nhất tại Speier, Đức năm 1477. Một số nữ tu đã bị phát hiện đang "cưỡi" lên người nhau, hoăc đang động chạm vào ngực của nhau, đã bị yêu cầu phải ăn năn sám hối trong bốn mươi ngày. Theo như được ghi lại, một nữ tu người Ý tên Xơ Benedetta Carlini đã quyến rũ rất nhiều trong số những nữ tu khác trong khi bị chiếm hữu bởi một linh hồn thần thánh tên Splenditello; và để kết thúc những mối quan hệ của bà với những người phụ nữ khác, bà đã bị biệt giam trong suốt 40 năm cuối của cuộc đời. Trong khi đó, yếu tố tình ái đồng tính giữa phụ nữ đã rất phổ biến trong văn học và trong những nhà hát của nước Anh, khiến cho các sử gia đề xuất rằng đó có thể là một "mốt" trong thời kỳ Phục Hưng.
Các ý niệm về tính dục của phụ nữ có những mối liên hệ với hiểu biết về sinh lý học nữ giới đương thời. Âm đạo đã được coi là một phiên bản ngược vào trong của dương vật; bởi sự hoàn mỹ của tự nhiên đã sinh ra người đàn ông, và người ta thường nghĩ rằng tự nhiên đang cố gắng sửa sai thành đúng khi làm sa trễ âm đạo của một số phụ nữ để tạo thành dương vật. Sau này, những thay đổi về giới tính này sau đó được coi là những trường hợp mơ hồ về giới tính, và sự mơ hồ giới tính trở thành từ đồng nghĩa với khao khát tình dục đồng giới ở phụ nữ. Những xem xét trong y khoa về sự mơ hồ giới tình còn tùy thuộc vào kích thước của âm vật; người ta coi rằng phụ nữ sẽ dùng một âm vật to và lớn hơn bình thường để quan hệ xâm nhập với những phụ nữ khác. Sự xâm nhập là trung tâm của sự quan tâm trong mọi hành vi tình dục, và một người phụ nữ bị coi là có những ham muốn không thể kiểm soát bởi có âm vật lớn sẽ bị gọi là "tribade" (dịch thô là "người chà xát"). Ngoài việc âm vật lớn một cách bất thường bị coi là tạo ra ham muốn nhục dục ở một số phụ nữ và khiến họ muốn thủ dâm, còn tồn tại cả những cuốn sách mỏng dưới dạng những câu chuyện, nhằm cảnh báo phụ nữ về việc thủ dâm có thể khiến nhiều cơ quan bị to bất thường. Trong một khoảng thời gian, thủ dâm và tình dục đồng tính nữ từng có cùng một nghĩa.
Mối liên hệ với sự phân biệt giai cấp trở nên rõ ràng hơn sau khi xu hướng tình dục đồng tính nữ qua đi. Các tribade vừa bị coi là thành phần của tầng lớp bên dưới đang cố hủy hoại những phụ nữ đức hạnh, vừa là đại diện cho tầng lớp quý tộc đã sụp đổ và trụy lạc. Những cây bút châm biếm bắt đầu ám chỉ rằng những đối thủ trên chính trường (hoặc thường xuyên hơn là vợ của họ) đã tham gia vào những quan hệ đồng tính nữ nhằm làm tổn hại thanh danh của họ. Có những tin đồn rằng Nữ hoàng Anne có một mối quan hệ mặn nồng với Sarah Churchill, Nữ Công tước vùng Marlborough, cố vấn và người bạn tâm tình gần gũi nhất với bà. Sau khi bị thay thế và mất đi sự sủng ái của Nữ hoàng, bà ta đã cố ý tung ra những cáo buộc về việc Nữ hoàng có quan hệ với các thị nữ. Maria Antonia của Áo cũng từng là đối tượng của những suy đoán tương tự trong một vài tháng giữa những năm 1975 và 1976.
Nữ giả trang nam
thumb|upright=1.0|Sử dụng hóa trang về giới như một công cụ trong các vở kịch vô cùng phổ biến trong thế kỉ 16 và 17, ví dụ như cảnh này giữa [[Viola (Twelfth Night)|Viola và Olivia từ vở Đêm Thứ Mười Hai vẽ bởi Frederick Pickersgill (1859).|alt=Painting of a Renaissance-era woman dressed as a man, standing and looking away, as a woman dressed as a woman holds the other's hand to her breast, looking imploringly at the other, set against a bucolic backdrop.]]
Sự không rõ ràng về giới tính đã xuất hiện trong các tài liệu y học đủ nhiều để được coi là một vấn đề được biết đến rộng rãi, mặc dù hiện tượng này hiếm khi xảy ra. Các yếu tố đồng tính trong văn học rất phổ biến, cụ thể là việc một giới tính giả trang thành một giới tính khác để lừa một người phụ nữ, khiến cho cô ấy không chút ngờ vực và bị quyến rũ. Những kỹ thuật dẫn truyện như vậy đã được dùng trong vở Đêm Thứ Mười Hai của Shakespeare (1601), Nữ chúa tiên của Edmund Spenser năm 1590, và Con chim trong lồng của James Shirley (1633). Trong thời kỳ Phục hưng, người ta đã ghi lại được những trường hợp nữ giới khoác lên mình diện mạo của nam giới và đã không bị phát hiện trong nhiều năm hoặc nhiều thế kỷ, mặc dù những trường hợp này được phụ nữ đồng tính miêu tả là việc ăn mặc xuyên giới, hoặc được ngành xã hội học đương thời định rõ đặc điểm là của người chuyển giới, là nguồn cơn của nhiều tranh cãi, và còn tùy thuộc vào những chi tiết của từng cá thể trong mỗi trường hợp.
Nếu bị phát hiện, hình phạt có thể thay đổi từ tử hình, cho tới việc bị trói trên giàn gông, cho tới bị yêu cầu không bao giờ được ăn mặc như đàn ông một lần nữa. Henry Fielding đã viết một cuốn sách mỏng với tựa đề Bà chồng năm 1746, dựa trên cuộc đời của Mary Hamilton, người đã bị bắt giữ vì kết hôn với một phụ nữ khi đang giả trang là một người đàn ông, và bị kết án chịu đánh roi công khai, và 6 tháng tù giam. Người ta cũng đã tìm ra những trường hợp tương tự: Catharine Linck ở Prussia năm 1717, bị hành hình năm 1721; Swiss Anne Grandjean kết hôn và chuyển đến Lyon sống cùng vợ, nhưng rồi sau đó bị vạch trần bởi một người phụ nữ mà cô từng có quan hệ tình ái trước đó, và bị kết án phải chịu gông và tù giam.
Nữ hoàng Christina của Thụy Điển thường ăn mặc như đàn ông - điều được rất nhiều người biết đến, nhưng được bỏ qua vì xuất thân danh giá của bà. Bà được nuôi dạy như con trai, và tại thời điểm đó, có những suy đoán rằng bà có sự mơ hồ về giới tính. Ngay cả sau khi Christina thoái vị năm 1654 để trốn tránh một cuộc hôn nhân, bà cũng được biết là đã theo đuổi những mối quan hệ tình cảm với phụ nữ.
Một số sử gia coi những trường hợp phụ nữ ăn mặc xuyên giới là sự biểu lộ mong muốn nắm giữ những quyền lực mà họ thường sẽ không thể có được khi ăn mặc như nữ giới, hoặc là cách thức để họ hợp lý hóa ham muốn của họ dành cho phụ nữ. Lilian Faderman đưa ra luận điểm rằng xã hội Tây phương bị đe dọa bởi những người phụ nữ đã chối từ vai trò giới nữ của họ. Catharine Linck và một số phụ nữ khác đã bị kết tội sử dụng dương vật giả, ví dụ như hai người nữ tu ở Tây Ban Nha thế kỷ XVI bị hành hình vì sử dụng "dụng cụ xác thịt", bị trừng phạt nặng nề hơn những người đã không làm như vậy. Những báo cáo của các thành viên giáo hội với những tiêu chuẩn lỏng lẻo - những người chủ trì các đám cưới và đã viết lại những nghi hoặc của họ về một người trong cuộc hôn nhân - đã tiếp tục xuất hiện cho đến tận thế kỷ sau đó.
Ngoài châu u, phụ nữ có thể ăn mặc như đàn ông mà không bị phát hiện. Deborah Sampson đã chiến đấu trong cuộc Cách mạng Mỹ dưới cái tên Robert Shurtlieff, và theo đuổi những mối quan hệ với phụ nữ. Edward De Lacy Evans được sinh ra với giới tính nữ ở Ireland, nhưng đã lấy một cái tên của nam giới trên một chuyến tàu tới Úc và sống dưới thân phận một người đàn ông trong 23 năm ở Victoria, với 3 lần kết hôn. Percy Redwood đã tạo nên một vụ tai tiếng ở New Zealand năm 1909 khi người ta phát hiện bà thực ra là Amy Bock, và đã kết hôn với một người phụ nữ từ Cảng Malyneaux; báo chí đã tranh cãi liệu đó là một dấu hiệu của bệnh tâm thần hay một lỗi bẩm sinh về tính cách.
Xem xét lại các mối quan hệ bạn bè lãng mạn
thumb|right|Sự thân mật giữa phái nữ được coi là thời thượng từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, mặc dù tính dục hiếm khi được thừa nhận công khai. (Ảnh chụp trong khoảng năm 1900.)|alt=Black and white photo of two women sitting in a hammock in turn of the 20th century dresses; one reclines and the other sits on her lap and wraps her arm around the other, both staring at each other.
Từ thế kỷ XVII đến XIX, việc một người phụ nữ bày tỏ một tình yêu nồng nhiệt cho một người phụ nữ khác được coi là hợp thời, được chấp nhận và khuyến khích.
Một ví dụ là của Phu nhân Mary Wortley Montagu, bà đã viết cho Anne Wortley vào năm 1709: "Chưa từng có ai là của nàng đầy trọn vẹn và chung thủy như vậy… Kể cả những người tình nhân của nàng, bởi không thể nào một người đàn ông lại có thể chân thành như ta." Tương tự, nhà thơ người Anh Anna Seward đã có một tình bạn khăng khít với Honora Sneyd, chủ thể trong rất nhiều những bài sonnet và thơ của Seward. Khi Sneyd kết hôn bất chấp sự phản đối của Seward, giọng thơ của bà trở nên tức giận. Tuy nhiên, Seward vẫn tiếp tục viết về Sneyd rất lâu sau cái chết của bà ấy, tán dương vẻ đẹp của Sneyd và tình cảm cũng như tình bạn của họ. Khi còn trẻ, cây bút và triết gia Mary Wollstonecraft đã rất gắn bó với một người phụ nữ tên Fanny Blood. Khi viết cho một người phụ nữ mà cô cảm thấy như đã phản bội mình gần đây, Wollstonecraft tuyên bố rằng: "Những bông hồng sẽ nở rộ khi sự yên bình nằm trên ngực, và viễn cảnh được chung sống cùng Fanny của tôi khiến tim tôi tràn ngập vui sướng - cô không thể biết tôi yêu nàng chừng nào."
thumb|[[Những quý bà vùng Llangollen Eleanor Butler và Sarah Ponsonby.
Hai người phụ nữ có một mối quan hệ được ca ngợi là tận tâm và đức hạnh, sau khi bỏ trốn và sống cùng nhau 51 năm tại Wales.|alt=An engraved drawing of Eleanor Butler and Sarah Ponsonby, known as the "Ladies of Llangollen". They are shown sitting in a private library wearing smoking jackets, with a cat in the foreground sitting in a chair.]]
Có lẽ tình bạn lãng mạn nổi tiếng nhất trong tất cả sẽ là giữa Eleanor Butler và Sarah Ponsonby, được gọi là Những quý bà vùng Llangollen. Butler và Ponsonby đã bỏ trốn cùng nhau năm 1778, trong sự nhẹ nhõm của gia đình Ponsonby (bởi lo lắng cho danh tiếng của họ nếu cô đã chạy trốn cùng một người đàn ông), để đến sinh sống ở Wales trong 51 năm và bị coi là lập dị. Câu chuyện của họ được coi là "đại diện cho tình bạn lãng mạn đức hạnh" và đã truyền cảm hứng cho thơ ca của Anna Seward và Henry Wadsworth Longfellow. Trong những cuốn nhật ký của mình, Anne Lister, một người đã say đắm cặp đôi Butler và Ponsonby, đã ghi lại những mối quan hệ tình ái của cô với những người phụ nữ giữa những năm 1817 và 1840. Một số được viết dưới dạng mật mã, miêu tả chi tiết những mối quan hệ tình dục của cô với Marianna Belcombe và Maria Barlow. Cả Lister và Eleanor Butler đều được coi là mang tính nam bởi những thông báo báo chí đương thời, và mặc dù có những nghi hoặc rằng mối quan hệ của họ về bản chất là quan hệ đồng tính nữ, họ vẫn được ngợi ca trong văn học.
Những mối quan hệ lãng mạn cũng phổ biến ở Mỹ. Nhà thơ đầy bí ẩn Emily Dickinson đã viết hơn 300 lá thư và bài thơ gửi đến Susan Gilbert, người sau đó đã trở thành chị dâu của bà, và tham gia vào một mối quan hệ thư từ lãng mạn khác với Kate Scott Anthon. Anthon đã dừng liên lạc trong cùng tháng mà Dickinson bắt đầu tự tách biệt bản thân cho đến cuối đời. Gần đó, ở Hartford, Connecticut, Addie Brown và Rebecca Primus, những người phụ nữ Mỹ gốc Phi được sinh ra với thân phận tự do, đã để lại bằng chứng về sự nồng nhiệt của họ trong những bức thư: "Chẳng nụ hôn nào như nụ hôn của nàng." Ở Georgia, Alice Baldy đã viết cho Josie Varner năm 1870: "Nàng có biết rằng nếu nàng chạm vào ta, hoặc nói với ta, không có một sợi dây thần kinh nào trên cơ thể ta không phản ứng lại với niềm vui sướng rộn ràng?"
Trong khoảng đầu thế kỷ XX, sự phát triển của giáo dục cao hơn đã đem đến nhiều cơ hội cho phụ nữ. Trong một không gian chỉ có phụ nữ, một nền văn hóa của việc mưu cầu sự lãng mạn đã được ấp ủ trong những trường cao đẳng của phụ nữ. Những học sinh lớn hơn dạy kèm cho những người trẻ hơn, ghé thăm họ, đưa họ đến những vũ hội chỉ có phụ nữ, và gửi cho họ hoa, thiệp và những bài thơ trong đó tuyên bố tình yêu bất diệt dành cho nhau. Những thứ như vậy được gọi là "smash" hoặc "spoon", và được nhắc đến một cách thẳng thắn và trung thực trong những câu chuyện được công bố dành cho trẻ em gái mong ước được học cao đẳng, ví dụ như Tập san Quý bà Tại gia, hoặc một tạp chí cho trẻ em tên Thánh Nicholas, và một tuyển tập tên Những câu chuyện về Cao đẳng Smith, và không hề xuất hiện những ý kiến trái chiều. Lòng chung thủy bền vững, sự tận tụy và tình yêu là những yếu tố chính làm nên những câu chuyện này, và những hoạt động tình dục xa hơn một nụ hôn không hề xuất hiện.
Bản dạng đồng tính nữ và vai trò giới của người đồng tính nữ trong nền văn hóa lịch sử phương Tây
Sự hình thành của bản dạng đồng tính nữ
thumb|Cộng đồng người đồng tính nữ lớn mạnh của Berlin trong những năm 1920 đã xuất bản tạp chí [[Die Freundin từ năm 1924 đến năm 1933.|alt=Reproduction of a German magazine cover with the title "Die Freundin" showing a nude woman sitting on a horse, looking behind her.]]
Đối với một số phụ nữ, việc nhận ra rằng họ tham gia vào hành vi hay các mối quan hệ có thể được xem là đồng tính nữ khiến họ phủ nhận hoặc che dấu nó, ví dụ như giáo sư Jeannette Augustus Marks ở Đại học Mount Holyoke, người đã sống với vị hiệu trưởng của trường đại học, Mary Woolley, trong 36 năm. Marks không tán thành việc những người phụ nữ trẻ theo đuổi những mối quan hệ "bất bình thường" và nhấn mạnh rằng chỉ có thể đạt được hạnh phúc với đàn ông.
Từ những năm 1890 đến những năm 1930, nữ thừa kế người Mỹ Natalie Clifford Barney tổ chức triển lãm nghệ thuật hàng tuần ở Paris, mời đến những ngôi sao lớn trong giới nghệ thuật và tập trung vào những chủ đề về đồng tính nữ. Kết hợp những ảnh hưởng của Hy Lạp với chủ nghĩa khiêu gợi đương đại của Pháp, cô đã cố gắng tạo ra một phiên bản hiện đại và lý tưởng hóa của Lesbos trong triển lãm của mình. Những người sống cùng thời kì với cô bao gồm họa sĩ Romaine Brooks, người đã vẽ tranh về những người khác trong cùng hội nhóm; các nhà văn Colette, Djuna Barnes, người tổ chức những buổi tụ họp xã hội (social host) Gertrude Stein, và tiểu thuyết gia Radclyffe Hall.
Berlin có một nền văn hóa đồng tính sôi động vào những năm 1920, và có khoảng 50 câu lạc bộ tồn tại để phục vụ người đồng tính nữ. Tạp chí Die Freundin (Người Bạn Gái), được xuất bản từ năm 1924 đến năm 1933, hướng đến những người đồng tính nữ. Garçonne (hay Frauenliebe (Tình yêu Phụ nữ)) hướng tới những người đồng tính nữ và người nam ăn mặc xuyên giới. Những ấn phẩm này được kiểm soát bởi những chủ sở hữu, nhà xuất bản, và người viết bài là nam giới. Vào khoảng năm 1926, Selli Engler thành lập Die BIF – Blätter Idealer Frauenfreundschaften (BIF – Những Bài viết về Tình bạn Lý tưởng giữa Phụ nữ), ấn phẩm đồng tính nữ đầu tiên được sở hữu, xuất bản và chắp bút bởi phụ nữ. Vào năm 1928, bản chỉ dẫn về quán bar và hộp đêm đồng tính nữ Berlins lesbische Frauen (Những Người đồng tính nữ ở Berlin), bởi Ruth Margarite Röllig, khiến thủ đô nước Đức thêm phần nổi tiếng như một trung tâm của hoạt động đồng tính nữ. Các câu lạc bộ đa dạng về thể loại, từ những cơ sở lớn đã trở thành điểm thu hút khách du lịch, đến những quán cà phê nhỏ trong khu vực, nơi phụ nữ tới để gặp mặt những người cùng giới khác. Bài hát mua vui quán bar Das lila Lied (tạm dịch: Bài ca Tím Oải hương) trở thành bài hát đặc trưng cho người đồng tính nữ ở Berlin. Mặc dù đôi khi có được sự chấp nhận, đồng tính luyến ái là bất hợp pháp ở Đức và cơ quan thi hành luật sử dụng những buổi tụ tập có phép như một cơ hội để ghi lại tên tuổi những người đồng tính với mục đích tham khảo trong tương lai. Ủy ban Khoa học - Nhân đạo (Scientific - Humanitarian Committee) của Magnus Hirschfeld, một tổ chức thúc đẩy sự chấp nhận đối với những người đồng tính luyến ái ở Đức, đã hoan nghênh sự tham gia của những người đồng tính nữ. Kết quả, có thể nhận thấy rõ ràng sự xuất hiện của làn sóng các bài viết và hoạt động chính trị có chủ đề xoay quanh người đồng tính nữ trong phong trào nữ quyền ở nước Đức.
Năm 1928, Radclyffe Hall xuất bản một cuốn tiểu thuyết mang tên The Well of Loneliness (tạm dịch: Giếng Cô đơn). Cuốn sách có cốt truyện xoay quanh Stephen Gordon, một người phụ nữ xác định bản thân là người đảo ngược (hay đồng tính) sau khi đọc cuốn sách Psychopathia Sexualis của Krafft-Ebing, và sống trong không gian của nền tiểu văn hóa đồng tính ở Paris. Cuốn tiểu thuyết bao gồm lời nói đầu của Havelock Ellis, và được sáng tác nhằm mục đích kêu gọi sự khoan dung, chấp nhận cho người đảo ngược bằng cách công khai những thiệt thòi và bất hạnh của họ khi sinh ra đã là đảo ngược. Hall tin vào những thuyết của Ellis và Krafft-Ebing, cũng như bác bỏ thuyết của Freud rằng sự hấp dẫn đồng tính bắt nguồn từ những tổn thương thời thơ ấu và có thể được chữa lành. Sự công khai mà Hall nhận được là kết quả của những hậu quả không có chủ ý; cuốn tiểu thuyết bị đưa ra xét xử ở London vì lí do dâm dục, một sự kiện tai tiếng thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng và được giáo sư Laura Doan miêu tả là "thời khắc kết tinh của quá trình xây dựng một nền tiểu văn hóa đồng tính nữ hữu hình ở nước Anh thời kì hiện đại".
Các mẩu chuyện báo chí đã thẳng thắn tiết lộ rằng nội dung cuốn sách bao gồm "quan hệ tình dục giữa những người phụ nữ đồng tính", và tại hầu hết các nhà phát hành báo chí lớn, trong suốt sáu tháng, những bức ảnh chụp Hall thường kèm theo các chi tiết về người đồng tính nữ. Hall phản ánh diện mạo của một người phụ nữ "nam tính" vào những năm 1920: tóc cắt ngắn, vest may đo chỉnh tề (thường đi kèm quần dài), cùng với kính một tròng đã được biết đến rộng rãi như một dạng "đồng phục". Khi những người phụ nữ nước Anh góp sức vào nỗ lực chiến tranh trong suốt cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, họ trở nên quen thuộc với trang phục nam tính, và được coi là yêu nước vì mặc đồng phục và quần dài. Sự nam tính hóa trong thời kì hậu chiến của phục trang phụ nữ chủ yếu được gắn liền với đồng tính nữ.
thumb|[[Gladys Bentley, một cư dân Harlem nổi tiếng bởi những giai điệu blues về các cuộc tình của bà với phụ nữ|alt=A publicity photo of a stout African American woman in white tuxedo with tails and top hat, carrying a cane and her signature in the lower right corner.]]
Ở Hoa Kỳ, những năm 1920 là thập kỉ của thử nghiệm xã hội, đặc biệt là với tình dục. Việc này chịu ảnh hưởng nặng nề từ các tác phẩm của Sigmund Freud, người đã đưa ra những thuyết nói rằng ham muốn tình dục sẽ được thỏa mãn một cách vô thức, bất chấp mong muốn phớt lờ nó của cá nhân. Những thuyết của Freud được phổ biến ở Hoa Kỳ nhiều hơn ở Châu u. Với quan niệm của số đông cho rằng các hoạt động tình dục là một phần của đồng tính nữ và các mối quan hệ của họ, thử nghiệm tình dục trở nên phổ biến. Những thành phố lớn cung cấp cuộc sống về đêm được nhiều người ưa thích, và phụ nữ bắt đầu tìm kiếm các cuộc phiêu lưu tình ái. Song tính trở nên thời thượng, đặc biệt là trong những khu vực đồng tính đầu tiên của Mỹ.
Không nơi nào có lượt khách tới thăm nhiều hơn Harlem vì khả năng cung cấp cuộc sống đồng tính về đêm, một địa phận của thành phố New York nơi chủ yếu là người Mỹ gốc Phi sinh sống. Những "kẻ chơi bời khu hạ cấp" da trắng (white "slummers") tận hưởng nhạc jazz, hộp đêm, hay bất cứ thứ gì mà họ muốn. Các ca sĩ nhạc blues Ma Rainey, Bessie Smith, Ethel Waters, và Gladys Bentley hát về những cuộc tình với phụ nữ cho những vị khách đến thăm như Tallulah Bankhead, Beatrice Lillie, và cho một Joan Crawford sắp thành danh. Những người đồng tính bắt đầu hình thành sự so sánh giữa trạng thái thiểu số mới được công nhận của họ và của những người Mỹ gốc Phi. Trong cộng đồng cư dân Mỹ gốc Phi của Harlem, các mối quan hệ đồng tính nữ là phổ biến và được chấp nhận, tuy không được đón nhận công khai. Một số phụ nữ dựng lên những lễ cưới xa hoa, thậm chí còn dùng những tên gọi nam tính để điền đơn đăng kí kết hôn cho thành phố New York. Tuy nhiên, phần lớn phụ nữ kết hôn với đàn ông và thường xuyên tham gia vào các mối quan hệ ngoài luồng với phụ nữ; song tính được chấp nhận rộng rãi hơn đồng tính nữ.
Ở phía bên kia thành phố, Greenwich Village (hay Làng Greenwich) cũng chứng kiến sự phát triển của cộng đồng đồng tính luyến ái; cả Harlem và Greenwich Village đều cung cấp các phòng đã được bày trí sẵn nội thất cho nam giới và nữ giới độc thân. Yếu tố ấy đã góp một phần rất lớn vào sự phát triển thành các trung tâm cho cộng đồng đồng tính. Tuy nhiên, người thuê nhà ở Greenwich Village có những khác biệt so với ở Harlem. Những người theo chủ nghĩa Bohemians—những người trí thức chối bỏ các lý tưởng của thời kì Victoria—tập trung ở Village. Những người đồng tính chủ yếu là nam giới, mặc dù vẫn tồn tại những nhân vật như nhà thơ Edna St. Vincent Millay và người tổ chức các buổi tụ họp xã hội (social host) Mabel Dodge, những người được biết đến bởi những cuộc tình với phụ nữ và khuyến khích thái độ dung thứ, chấp nhận đối với đồng tính luyến ái. Những người phụ nữ Hoa Kỳ không thể tới thăm Harlem hay sinh sống ở Greenwich Village lần đầu có thể tới thăm các triển lãm trong những năm 1920 mà không sợ bị coi là gái mại dâm. Theo nhà sử học Lillian Faderman, sự tồn tại của một không gian công cộng cho phép phụ nữ giao lưu trong các quán bar được biết đến như những địa điểm phục vụ người đồng tính nữ "đã trở thành biểu hiện công khai quan trọng nhất của nền tiểu văn hóa trong nhiều thập kỉ".
Cuộc đại khủng hoảng
Sự tự chủ tài chính là yếu tố chính yếu khuyến khích người đồng tính nữ công khai và tìm kiếm những người phụ nữ khác. Điều này hầu như biến mất hoàn toàn trong những năm 1930 với cuộc Đại Khủng hoảng. Phần lớn phụ nữ ở Hoa Kỳ thấy rằng kết hôn là việc cần thiết, và họ kết hôn với một "bức bình phong", ví dụ như một người đàn ông đồng tính, điều sẽ cho phép cả hai người theo đuổi những mối quan hệ đồng tính mà không bị xã hội soi xét, hoặc một người đàn ông với mong muốn có được một cô vợ truyền thống. Những người phụ nữ độc lập trong thời kì những năm 1930 được nhìn nhận chung là đang đảm nhận những công việc lẽ ra là của đàn ông.
Thái độ xã hội đã tạo ra những cộng đồng rất nhỏ và gắn kết trong các thành phố lớn, tập trung quanh các quán bar, trong khi đồng thời cô lập phụ nữ ở những khu vực khác. Nói về đồng tính luyến ái trong bất kì ngữ cảnh nào đều là điều cấm kị, và phụ nữ hiếm khi bàn luận về đồng tính nữ, ngay cả với nhau; họ nhắc đến những người đồng tính công khai là "theo Lối sống" ("in the Life"). Thuyết phân tâm học trường phái Freud có sức ảnh hưởng lan rộng đến bác sĩ, khiến họ coi đồng tính là một chứng loạn thần kinh ảnh hưởng đến nữ giới chưa trưởng thành. Nền tiểu văn hóa đồng tính biến mất ở Đức cùng với sự trỗi dậy của Đức Quốc xã vào năm 1933.
Chiến tranh Thế giới thứ II
thumb|Những kinh nghiệm trong lực lượng lao động và trong quân đội của phụ nữ trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai trao cho họ những lựa chọn về kinh tế và xã hội góp phần hình thành nền tiểu văn hóa đồng tính nữ.|alt= thumb|Những người phụ nữ không tuân theo lý tưởng về phụ nữ của Đảng Quốc xã bị bỏ tù và đánh dấu bằng một hình tam giác đen. Một số người đồng tính nữ giành lại biểu tượng này như cái cách người đồng tính nam giành lại hình tam giác hồng.|alt=An upside down black triangle. Women who did not conform to the Nazi ideal for women, which included lesbians, were imprisoned and labeled with the triangle. thumb|Nhiều người đồng tính nữ giành lại nghĩa biểu tượng của hình tam giác hồng, mặc dù nó chỉ được áp dụng cho người đồng tính nam bởi Đảng Quốc xã.|alt=An upside down pink triangle. Though it was only applied to gay men by the Nazis, many lesbians reclaimed the symbolism of the pink triangle.
Chiến tranh Thế giới Thứ hai nổ ra, gây nên biến động vô cùng lớn trong cuộc sống của người dân bởi điều động quân sự đã ảnh hưởng đến hàng triệu nam giới. Phụ nữ cũng được chấp nhận vào quân đội trong Quân đoàn Phụ nữ Hoa Kỳ (Women’s Army Corps) (WACs) và Binh chủng Phụ nữ được Chấp nhận cho Tình nguyện Khẩn cấp (Women Accepted for Volunteer Emergency Service) (WAVES) của Hải quân Hoa Kỳ. Khác với các quy trình sàng lọc đồng tính nam đã được áp dụng từ khi hình thành quân đội Mỹ, chưa có một phương pháp nào để xác định hay sàng lọc đồng tính nữ; chúng được đưa vào áp dụng một cách từ từ trong Thế chiến Thứ hai. Bất chấp các quan điểm thường thấy về vai trò truyền thống của phụ nữ trong những năm 1930, những người phụ nữ độc lập và nam tính được quân đội trực tiếp tuyển dụng trong những năm 1940, và sự yếu đuối không được khuyến khích
Một số phụ nữ có thể tới trại tuyển quân trong đồ nam, phủ nhận việc từng yêu phụ nữ khác và dễ dàng được tuyển.
Những người phụ nữ nam tính nhất không thực sự là điều thường thấy, nhưng họ lại dễ xuất hiện nổi bật, nên có xu hướng thu hút những phụ nữ đang tìm kiếm những người đồng tính nữ khác. Phụ nữ phải thận trọng trong việc tiết lộ về hứng thú với nữ giới, đôi khi mất nhiều ngày để có thể hình thành được sự thấu hiểu mà không phải hỏi trực tiếp hay nói ra một cách thẳng thắn. Những người phụ nữ không nhập ngũ được quyết liệt kêu gọi tham gia vào những công việc của ngành công nghiệp đã bị nam giới bỏ lại, nhằm mục đích tiếp tục tăng năng suất quốc gia. Sự gia tăng của tính linh động, sự tinh tế, và tính tự chủ của rất nhiều phụ nữ trong và sau cuộc chiến tạo điều kiện cho phụ nữ sống mà không cần có chồng, một điều bất khả trong những điều kiện kinh tế và xã hội khác, tiếp tục định hình nên các mạng lưới và môi trường đồng tính nữ.
Người đồng tính nữ không được bao gồm trong Đoạn 175, một đạo luật ở Đức liệt hoạt động đồng tính luyến ái giữa nam giới vào hành vi phạm tội. Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ (The United States Holocaust Memorial MMuseum) (USHMM) đã quy lí do cho việc nữ giới bị nhìn nhận là yếu kém hơn nam giới, và nhà nước Đức Quốc xã lo ngại về người đồng tính nữ ít hơn người đồng tính nam. Tuy nhiên, USHMM cũng nói rằng rất nhiều phụ nữ đã bị bắt và bỏ tù vì hành vi "phi xã hội", một cái mác được gán cho những người phụ nữ không tuân theo hình tượng người phụ nữ lý tưởng của Đức Quốc xã: nấu ăn, dọn dẹp, làm việc bếp núc, nuôi con, và thụ động. Những người phụ nữ này được đánh dấu bằng một hình tam giác màu đen. Một số người đồng tính nữ đã giành lại cho mình biểu tượng này, cũng như cái cách mà người đồng tính nam giành lại hình tam giác hồng. Nhiều người đồng tính nữ cũng đã giành lại tam giác hồng.
Những năm hậu chiến
thumb|upright|Ấn bản đầu tiên vào năm 1975 của [[The Ladder (magazine)|The Ladder, được gửi đến hàng trăm phụ nữ ở khu vực San Francisco, thúc giục phụ nữ cởi bỏ những tấm mặt nạ.|alt=A drawn illustrated magazine cover of a woman in half shadow with short, wavy hair holding a harlequin mask under the title "The Ladder" and the date "October 1957" underneath it.]]
Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, ở Hoa Kỳ xuất hiện phong trào thúc ép việc quay trở lại với xã hội tiền chiến càng nhanh càng tốt trên quy mô toàn quốc. Khi kết hợp với hoang tưởng quốc gia ngày càng tăng về chủ nghĩa cộng sản và thuyết phân tâm—thứ đã trở nên phổ biến trong kiến thức y khoa, đồng tính luyến ái trở thành một đặc điểm không đáng mong muốn ở các nhân viên làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ vào năm 1950. Những người đồng tính được cho là những mục tiêu dễ dàng cho hành vi hăm dọa, tống tiền, và chính phủ đã loại bỏ hoàn toàn những người đồng tính công khai khỏi các cấp bậc việc làm, khởi đầu cho nỗ lực lan rộng trong việc thu thập thông tin tình báo về đời tư của nhân viên. Chính quyền bang và địa phương nhanh chóng làm theo, bắt giữ những người tụ tập trong các quán bar và công viên, đồng thời ban hành luật cấm đảo trang đối với đàn ông và phụ nữ.
Quân đội và chính phủ Hoa Kỳ thực hiện rất nhiều cuộc thẩm vấn, tra hỏi liệu phụ nữ đã từng có quan hệ tình dục với những người nữ khác chưa, và về cơ bản đánh đồng cả trải nghiệm một lần với hành vi phạm tội, qua đó phân định rõ ràng những người dị tính khỏi những người đồng tính. Vào năm 1952, đồng tính luyến ái được liệt vào rối loạn cảm xúc bệnh lý trong Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê (Diagnostic and Statistical Manual) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association). Quan điểm cho rằng đồng tính luyến ái là một loại bệnh có thể chữa khỏi được tin tưởng rộng rãi trong cộng đồng y học, trong công chúng, cũng như giữa nhiều người đồng tính nữ.
Những thái độ và động thái nhằm loại bỏ người đồng tính khỏi những vị trí trong ngành dịch vụ công lan rộng sang Úc và Canada. Một mục đã được thêm vào dự thảo luật trong Hạ viện Vương quốc Anh và cũng được thông qua ở đó vào năm 1921 với mục đích tạo ra vi phạm "hành vi khiếm nhã thô tục" giữa nữ giới, nhưng bị từ chối bởi Thượng viện Anh (hay Viện Quý tộc), dường như bởi lo ngại rằng bất cứ một sự chú ý nào dành cho hành vi tình dục sai trái sẽ chỉ thúc đẩy nó.
Giao lưu ngầm
Có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái nằm ngoài phạm vi những văn bản y học và tâm thần học. Những địa điểm gặp gỡ cộng đồng bao gồm các quán bar thường bị đột kích bởi cảnh sát trung bình một lần mỗi tháng, với những người bị bắt gi