✨Công khai xu hướng tính dục

Công khai xu hướng tính dục

Công khai tính dục (coming out of the closet, thường được nói ngắn gọn là coming out), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của họ.

Việc công khai tính dục đã được đóng khung và bàn luận như một vấn đề riêng tư, và được miêu tả và cảm nhận theo nhiều cách khác nhau: một quá trình hoặc hành trình tâm lý học; một sự quyết định hoặc mạo hiểm; một chiến thuật hoặc kế hoạch; một sự kiện đông người hoặc công khai; một hành động diễn thuyết và một vấn đề về danh tính cá nhân, một nghi thức công nhận; một sự giải phóng hoặc tự do khỏi sự áp bức; một thử thách; một cách thức hướng tới niềm tự hào đồng tính thay vì sự hổ thẹn hoặc kỳ thị xã hội; hoặc thậm chí một sự mạo hiểm đối với sự nghiệp. Tác giả Steven Seidman đã viết rằng: "Sự giấu kín xu hướng tính dục có sức mạnh thay đổi cốt lõi cuộc đời của một con người. Chính điều đó đã khiến cho đồng tính luyến ái trở thành một vấn đề nổi cộm về cá nhân, xã hội và chính trị tại nước Mỹ thế kỷ XX."

Cụm coming out of the closet là nguồn gốc của nhiều cụm từ lóng trong cộng đồng LGBT liên quan đến việc tồn tại hay thiếu đi sự công khai tự nguyện. Những người thuộc cộng đồng LGBT đã công khai hoặc không còn che giấu xu hướng tính dục hay bản dạng giới của họ được gọi là out, hay còn gọi là LGBT một cách công khai. Ngược lại với đó là những người LGBT chưa tiết lộ hoặc đã lựa chọn là sẽ không tiết lộ, được gắn nhãn là closeted hoặc being in the closet (ở trong tủ). Outing là hành động công khai xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của một người LGBT một cách cố ý hoặc vô tình mà không có sự đồng thuận của họ. Mở rộng ra, outing oneself ("outing" bản thân) là hành động tự công khai. Glass closet (tủ kính) nghĩa là việc một nhân vật của công chúng là người LGBT, việc vốn được coi là một bí mật, nhưng lại thường được biết đến rộng rãi và là một sự thật được chấp nhận phổ biến mặc dù người đó có thể chưa công khai một cách chính thức.

Lịch sử

thumb|Thế kỷ thứ XIX, nhà đấu tranh cho quyền lợi của người đồng tính người Đức [[Karl Heinrich Ulrichs đã giới thiệu về ý tưởng của việc công khai bản thân như một phương thức để giải phóng.]]

Năm 1869, một trăm năm trước chuỗi bạo loạn Stonewall, nhà đấu tranh cho quyền lợi của người đồng tính người Đức Karl Heinrich Ulrichs đã giới thiệu về ý tưởng của việc công khai bản thân như một phương thức để giải phóng. Ông khẳng định rằng sự ẩn danh là một vật cản chính ngăn trở việc thay đổi cách nhìn của công chúng, và từ đó thúc giục những người đồng tính công khai những thu hút đồng giới của họ. Trong một cuộc phỏng vấn, Robert Beachy nói rằng: "Tôi thấy hợp lý khi coi Ulrichs là người đồng tính đầu tiên tự công khai."

Trong công trình năm 1906 của mình, Das Sexualleben unserer Zeit in seinen Beziehungen zur modernen Kultur (Đời sống tình dục trong thời đại của chúng ta trong mối tương quan với nền văn minh hiện đại), Iwan Block, một bác sĩ người Đức lai Do Thái, đã van nài những người đồng tính cao tuổi công khai bản thân với gia đình và những người thân quen. Năm 1914, [[Magnus Hirschfield_ đã nghiên cứu lại chủ đề này trong công trình trọng điểm của ông: _Đồng tính luyến ái ở đàn ông và phụ nữ'', bàn về những tiềm năng mang tính xã hội và pháp lý của việc hàng ngàn người đàn ông và phụ nữ đồng tính có địa vị đã công khai xu hướng tính dục của bản thân với cảnh sát để tạo ảnh hưởng tới các nhà lập pháp và quan điểm công chúng.

Nhân vật nổi bật đầu tiên ở Mỹ đã công khai xu hướng đồng tính luyến ái của bản thân là nhà thơ Robert Duncan. Năm 1944, ông đã sử dụng tên của chính mình trong tờ tạp chí vô chính phủ Chính trị để viết rằng người đồng tính là một cộng đồng thiểu số bị áp bức. Tổ chức Mattachine Society, vốn được giữ bí mật một cách có chủ đích, thành lập bởi Harry Hay và những cựu chiến binh trong chiến dịch tranh cử Tổng thống của Wallace ở Los Angeles năm 1950, đã công khai với công chúng sau khi Hal Call đứng lên quản lý tổ chức này, và cùng với đó là rất nhiều người đồng tính đã công khai tính dục.

Năm 1951, Donald Webster Cory đã xuất bản Người đồng tính ở nước Mỹ, nhấn mạnh rằng, "Xã hội đã đưa tôi một cái mặt nạ và bắt tôi phải đeo lên... Dù tôi đi đến bất cứ đâu, ở bất cứ thời điểm nào hay trước bất kì một thành phần nào của xã hội, tôi đều phải giả vờ." Cory chỉ là một bút danh, nhưng những mô tả chân thật và chủ quan một cách cởi mở của ông đã đóng vai trò khuyến khích cho sự nhận thức về bản thân ngày càng tăng cao của những người đồng tính, cũng như phong trào của người đồng tính mới trỗi dậy.

Những năm 1960, Frank Kameny tiến lên hàng ngũ đầu của cuộc đấu tranh. Sau khi bị sa thải khỏi vị trí một nhà thiên văn học cho AMS (Army Map Service) vào năm 1957 vì những hành vi đồng tính, Kameny không chấp nhận giữ im lặng. Ông đấu tranh một cách công khai chống lại việc bản thân bị sa thải, và cuối cùng đã kháng cáo lên đến tận Tòa án Tối cao của nước Mỹ. Kameny, một lá cờ đầu trong phong trào đang ngày càng phát triển, đã đưa ra những lý lẽ để ủng hộ những hành động công khai táo bạo. Mấu chốt của lời buộc tội ấy là, "chúng ta phải truyền cho cộng đồng đồng tính một cảm giác về giá trị của bản thân mỗi cá nhân người đồng tính", điều chỉ có thể đạt được qua những chiến dịch được dẫn dắt công khai bởi chính người đồng tính. Với sự lan tỏa của sự tăng vọt về nhận thức cuối những năm 1960, việc công khai tính dục đã trở thành chìa khóa cho chiến thuật giải phóng người đồng tính trong việc nâng cao nhận thức chính trị để chống lại sự phân biệt giới giữa người dị tính và sự kì thị người đồng tính. Ngay trong thời gian đó và còn tiếp tục đến những năm 1980, những nhóm thảo luận hỗ trợ xã hội cho người đồng tính nam và nữ, còn được gọi là "nhóm công khai tính dục", tập trung vào việc chia sẻ những "câu chuyện" (trải nghiệm) về việc công khai tính dục với mục tiêu giảm thiểu cảm giác bị cô lập và tăng cường sự hiện diện và tự hào của người đồng tính.

Nguồn gốc ngôn ngữ học xã hội

Cách diễn đạt ngày nay "công khai tính dục" được biết là có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 20 từ phép loại suy ví bước đầu làm quen văn hóa nhóm đồng tính của người đồng tính với một bữa tiệc trưởng thành của cô gái mới lớn. Đây là một lễ kỷ niệm dành cho phụ nữ trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu chuẩn bị cho màn début - sự ra mắt chính thức của cô ấy với xã hội - vì cô ấy đã đến tuổi trưởng thành hoặc đủ điều kiện để kết hôn. Như nhà sử học George Chauncey chỉ ra:

Người đồng tính trong những năm trước chiến tranh [trước-Chiến tranh thế giới thứ nhất]... không nói đến việc bước ra khỏi cái chúng ta gọi là gay closet mà là công khai bước vào cái họ gọi là xã hội đồng tính hoặc thế giới đồng tính, một thế giới không quá nhỏ, không quá cô lập, cũng không ... quá ẩn như ngụ ý của từ closet (tủ).

Trên thực tế, như Elizabeth Kennedy nhận xét, "sử dụng cụ từ ‘closet’ để ám chỉ" những thời điểm trước đó như "những năm 1920 và 1930 có thể lỗi thời".

Một bài báo về việc công khai trên trang bách khoa toàn thư trực tuyến glbtq.com nói rằng những quan sát của nhà tính dục học Evelyn Hooker đã giới thiệu cách sử dụng từ "coming out" với cộng đồng học thuật vào những năm 1950. Bài báo tiếp tục lặp lại quan sát của Chauncey rằng sự thay đổi ý nghĩa từ ngữ tiếp tục xảy ra sau đó. Trước những năm 1950, người ta tập trung vào lối vào "một thế giới của hi vọng và tính đoàn kết cộng đồng"; trong khi định nghĩa sau cuộc bạo loạn Stonewall là lối thoát khỏi sự áp bức của tủ (closet). thường được gọi là "công khai tính dục với chính mình" và là khởi đầu của sự tự chấp nhận bản thân. Nhiều người thuộc cộng đồng LGBT nói rằng giai đoạn này của họ bắt đầu ở tuổi vị thành niên hoặc thời thơ ấu, khi họ lần đầu tiên nhận thức được xu hướng tính dục của mình đối với những người cùng giới tính. Công khai tính dục được coi là một quá trình một phần khác là do nhu cầu hoặc mong muốn lặp đi lặp lại được công khai xu hướng tính dục trong những môi trường hoặc tình huống mới, trong đó người thuộc cộng đồng LGBT được mặc định là người dị tính hoặc hợp giới, chẳng hạn như tại môi trường công sở mới hoặc khi làm quen với người mới. Một phương pháp tham khảo chính cho những người sắp công khai xu hướng tính dục bao gồm việc sử dụng góc nhìn hướng nội/hướng ngoại. Một số người cho rằng với phương pháp này, họ có thể giữ bí mật về căn tính và xu hướng tính dục của bản thân, đồng thời tách biệt chúng với ngoại hình của họ. Điều này không đơn giản như người ta thường nghĩ, như Diana Fuss (1991) lập luận, "tất nhiên, vấn đề với quan điểm nhìn nhận nội tâm/công khai... là những luận điệu như vậy che giấu thực tế rằng hầu hết chúng ta đồng thời đều hướng nội và hướng ngoại."

Sự phát triển của bản dạng LGBT

Mỗi câu chuyện công khai tính dục là một người cố gắng chấp nhận nhân dạng và xu hướng tính dục của bản thân. Một số mô hình đã được tạo ra để miêu tả công khai tính dục như một quá trình phát triển căn tính của người đồng tính nam và nữ, ví dụ Dank, 1971; Cass, 1984; Coleman, 1989; Troiden, 1989. Trong những mô hình này, mô hình căn tính Cass do Vivienne Cass thiết lập được chấp nhận rộng rãi nhất. Mô hình này vạch ra sáu giai đoạn riêng biệt mà mỗi cá nhân đã công khai tính dục thành công đều phải trải qua: sự rối loạn căn tính, sự so sánh căn tính, sự dung nạp căn tính, sự chấp nhận căn tính, sự tự hào về căn tính và sự hòa hợp căn tính. Tuy nhiên, không phải người nào thuộc LGBT nào cũng đi theo mô hình này. Ví dụ, nhiều thiếu niên LGBT nhận thức được và chấp nhận những ham muốn đồng tính hoặc bản dạng giới ở tuổi dậy thì tương tự với cách những thiếu niên dị tính nhận thức được xu hướng tính dục của họ, nói cách khác là không có bất kỳ khái niệm khác biệt, dị nghị hoặc xấu hổ về giới tính người thu hút họ. Bất kể là thiếu niên LGBT có hình thành bản dạng dựa trên mô hình hay không, độ tuổi điển hình mà thiếu niên ở Hoa Kỳ công khai tính dục đã giảm xuống. Học sinh cấp 3 và thậm chí học sinh cấp 2 dần công khai tính dục.

Nghiên cứu nổi bật gần đây cho thấy rằng người đồng tính nam xuất thân từ gia đình sùng đạo thường công khai trực tuyến qua Facebook và blog vì việc này cung cấp khoảng cách cá nhân an toàn. Điều này mâu thuẫn sâu sắc với quan điểm phổ biến trong nghiên cứu mạng xã hội cho rằng hoạt động trực tuyến, đặc biệt là Facebook, có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực về sức khỏe tâm lý như mức độ lo âu tăng. Tuy cần nghiên cứu thêm liệu những kết quả này có đủ khái quát để áp dụng cho số người đông hơn hay không, những phát hiện gần đây đã mở ra khả năng rằng trải nghiệm trực tuyến của người đồng tính nam có thể khác với người dị tính nam và có thể đem lại nhiều lợi ích về sức khỏe tâm lý hơn là gây ra hậu quả xấu.

Căn tính của người chuyển giới và công khai tính dục

Có nhiều sự khác biệt giữa các cá nhân chuyển giới về việc lựa chọn thời điểm, quyết định tiết lộ và cách tiết lộ việc mình là người chuyển giới với gia đình, bạn bè thân thiết và những người khác. Sự phổ biến của phân biệt đối xử và bạo lực đối với người chuyển giới (ví dụ, ở Hoa Kỳ, khả năng người chuyển giới trở thành nạn nhân của bạo lực cao hơn 28%) có thể khiến công khai tính dục trở thành một quyết định mạo hiểm. Lo sợ những hành vi trả thù như bị đuổi khỏi nhà bố mẹ khi chưa đủ tuổi trưởng thành là nguyên nhân khiến người chuyển giới không công khai tính dục với gia đình cho tới khi họ trưởng thành. Sự hoang mang và sự thiếu chấp nhận của bố mẹ đối với con là người chuyển giới có thể dẫn đến việc bố mẹ xem bản dạng giới mới tiết lộ là một "giai đoạn" hoặc nỗ lực thay đổi con mình trở lại "bình thường" bằng cách sử dụng dịch vụ sức khỏe tâm lý để thay đổi bản dạng giới của đứa trẻ.

Internet có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình công khai của những người chuyển giới. Một số xuất hiện dưới dạng nhận dạng trực tuyến trước tiên, mang đến cơ hội trải nghiệm ảo và an toàn trước khi gặp rủi ro trừng phạt xã hội trong thế giới thực. Tuy nhiên, trong khi nhiều người chuyển giới tìm thấy đồng minh trực tuyến mà họ có thể không có trong đời thực, những người khác lại gặp phải sự bắt nạt và quấy rối khi công khai trên mạng. Theo một nghiên cứu được công bố bởi Blumenfeld và Cooper vào năm 2012, thanh niên LGBT báo cáo hành vi bắt nạt trực tuyến ít hơn 22% do các yếu tố như cha mẹ không tin hoặc không hiểu các em, hoặc sợ phải công khai tính dục để giải thích sự việc. Điều này càng cho thấy những rào cản mà các cá nhân chuyển giới có thể gặp phải khi công khai tính dục.

Việc công khai tính dục với tư cách người chuyển giới có thể phức tạp hơn so với một người thuộc xu hướng tính dục thiểu số. Những thay đổi có thể nhìn thấy có thể xảy ra như một phần của việc thay đổi bản dạng giới của một người - chẳng hạn như thay đổi tủ quần áo, phẫu thuật chuyển đổi giới tính và thay đổi tên - có thể khiến việc công khai với người khác trở thành một điều bắt buộc. Hơn nữa, những thứ đi kèm với việc chuyển đổi giới tính có thể có tác động về tài chính, thể chất, y tế và pháp lý. Ngoài ra, các cá nhân chuyển giới có thể chịu định kiến ​​và bị từ chối bởi những người thuộc xu hướng tính dục thiểu số và những người khác trong cộng đồng LGBT, thêm vào đó là định kiến đối với người thuộc cộng đồng LGBT mà họ có thể phải đối mặt với nền văn hóa chính thống. Điều này có thể gây cảm giác bị cô lập cho những cá nhân chuyển giới. Một ảnh hưởng tiêu cực lớn của sự bất bình đẳng trong các quy định là những ảnh hưởng tâm lý, vì những người chuyển giới phải sử dụng giới tính hợp pháp không hợp giới của họ hoặc bị buộc phải dùng dead name có thể đối mặt với những tình huống khó chịu và căng thẳng.

Các ảnh hưởng

Vào thời kì đầu sự phát triển của bản dạng LGBT, mọi người có thể cảm thấy bối rối và khó hiểu. Vào năm 1993, Michealangelo Signorile viết cuốn Queer in America. Nội dung cuốn sách nói về sự tìm hiểu của ông về những tác hại của việc không công khai xu hướng tính dục đối với người chưa công khai và đối với xã hội nói chung.

Do cộng đồng LGBT đã từ lâu bị xem như thiểu số tính dục, việc công khai vẫn còn rất khó khăn cho hầu hết những người thuộc LGBT. Việc công khai còn có thể phản tác dụng bởi sự phân biệt chủ nghĩa dị tính và bạo lực do kì thị đồng tính.

Các nghiên cứu cho thấy việc che giấu xu hướng tính dục có sự liên quan đến sức khỏe tinh thần không ổn định, physical health, sức khỏe thể chất suy giảm và các mối quan hệ có ổn định hay không. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy những cặp đôi đồng tính chưa công khai ít hài lòng về mối quan hệ hơn các cặp đôi đồng tính đã công khai. Các kết quả của một nghiên cứu khác cho thấy một người đồng tính nữ sẽ lo lắng nhiều hơn, lãnh cảm hơn, và lòng tự trọng thấp hơn nếu có càng ít người biết về xu hướng tính dục của mình. Thêm nữa, Gay.com cho thấy kết quả rằng những người đồng tính chưa công khai có khả năng tự tử cao hơn.

Tùy vào mức độ thân thiết giữa cha mẹ và con cái, việc công khai là đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hoặc chuyển giới có thể có kết quả tích cực hoặc tiêu cực. Một mối quan hệ vốn đã bền chắc sẽ còn gắn kết hơn, nhưng với một mối quan hệ vốn đã căng thẳng, việc người con công khai sẽ đẩy sự căng thẳng lên cao hơn hoặc phá hủy hoàn toàn mối quan hệ. Nếu cha mẹ chấp nhận việc con mình công khai, sẽ có những cuộc trò chuyện về hẹn hò và các mối quan hệ, và cha mẹ có thể giúp con đối mặt với sự kì thị và có những quyết định đúng đắn và an toàn về vấn đề HIV/AIDS. Tuy nhiên, việc công khai không phải lúc nào cũng mang lại ảnh hưởng tích cực, bởi cha me, gia đình và những người thân cận có thể không chấp nhận. Ví dụ, trẻ vị thành niên không được cha mẹ chấp nhận xu hướng tính dục khi lớn có nhiều khả năng sử dụng chất cấm, mắc bệnh trầm cảm, cố tự tử và những hành vi tình dục nguy hiểm cao hơn. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng phản ứng của cha mẹ đối với việc công khai có ảnh hưởng về sức khỏe lớn hơn ảnh hưởng của việc che giấu xu hướng tính dục. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng phản ứng của cha mẹ đối với việc công khai có ảnh hưởng về sức khỏe lớn hơn ảnh hưởng của việc che giấu xu hướng tính dục.

Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của việc công khai với ba mẹ đã được thực hiện. Vào năm 1989, nghiên cứu của Robinson cùng đồng nghiệp đã cho thấy rằng, đối với những phụ huynh của các đứa trẻ đồng tính công khai, 21% những người cha và 28% những người mẹ đã nghi ngờ về xu hướng tính dục của con, phần lớn dựa vào những hành vi bất thường đối với giới của đứa trẻ trong suốt tuổi thơ. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng 2/3 cha mẹ phản ứng tiêu cực. Một nghiên cứu vào năm 1995 (dựa trên phản ứng của người trẻ) cho thấy một nửa các bà mẹ có con trai là sinh viên đại học và là đồng tính hoặc song tính "phản ứng bằng sự bất ngờ, khó tin, chối bỏ hoặc những bình luận tiêu cực", còn phản ứng của người cha có phần tốt hơn. 18% cha mẹ có biểu hiện "không đồng thuận, cố biến con thành dị tính, các lời đe dọa ngưng hỗ trợ về tài chính và cảm xúc."

Đi khỏi nhà là một ảnh hưởng khá quen thuộc của cộng đồng LGBT trong quá trình công khai. Những thanh thiếu niên thuộc LGBT chiếm phần lớn nhất trong số các thanh thiếu niên vô gia cư; nguyên nhân đến từ việc định nghĩa bản thân và nhận biết bản thân là đồng tính hoặc thuộc về cộng đồng LGBT. Khoảng 20 đến 30% thanh thiếu niên vô gia cư nhận bản thân là LGBT. 55% thanh thiếu niên thuộc LGBQ và 67% thanh thiếu niên chuyển giới bị đuổi khỏi nhà hoặc chạy trốn bởi vì xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới và thể hiện giới. Một nghiên cứu năm 2016 về con đường của thanh thiếu niên Latinh LGBT vô gia cư cho thấy rằng việc người thuộc LGBT vô gia cư cũng có thể do các vấn đề cơ cấu như hệ thống y tế, các yếu tố văn hóa xã hội và kinh tế.

Vào năm 2015, Jimmie Manning thực hiện một nghiên cứu về hành vi tích cực và tiêu cực trong các cuộc nói chuyện công khai xu hướng tính dục. Trong suốt nghiên cứu của mình, ông thấy rằng hầu hết các đối tượng nghiên cứu chỉ thể hiện hành vi tiêu cực với bản thân trong suốt cuộc trò chuyện; ngược lại hành vi tích cực thì dành cho người nghe. Manning đề nghĩ nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này để tìm ra giải pháp làm cho cả người công khai và người nghe nhìn thấy và thực hiện hành vi tích cực.

Những ẩn dụ về in/out (không công khai/công khai)

Sự nhị phân

Câu chuyện về closet (ở trong tủ) đã ngầm đặt ra thuyết nhị nguyên giữa việc "out (công khai)" hoặc "in (không công khai)", trong đó những người "in (không công khai)" thường bị bêu xấu là sống giả tạo, cuộc đời bất hạnh. Tương tự như vậy, nhà triết học và nhà phân tích phê bình Judith Butler (1991) tuyên bố rằng phép ẩn dụ in/out tạo ra một sự đối lập nhị phân giả định rằng "closet" tối tăm, dồn ép và giả tạo còn việc out (công khai) là được "khai sáng" bộc lộ bản dạng thật (hoặc chủ yếu). Tuy nhiên, Butler sẵn sàng xuất hiện tại các sự kiện với tư cách là một người đồng tính nữ và xác nhận rằng "có thể lập luận/chứng minh rằng ... vẫn có mệnh lệnh chính trị rằng sử dụng những lỗi hoặc nhầm danh mục là cần thiết ... để tập hợp và đại diện cho một khu vực bầu cử chính trị bị áp bức".

Những chỉ trích

Ngoài ra, Diana Fuss (1991) giải thích, "vấn đề nghiễm nhiên với những lời tranh luận về bên trong / bên ngoài "closet" (không công khai/công khai) ... là những cuộc bút chiến như vậy che giấu thực tế rằng hầu hết chúng ta đều ở bên trong và bên ngoài "closet" cùng một lúc". Hơn nữa, "Out (công khai), theo cách nói thông thường của người đồng tính, chính xác là không còn phải công khai nữa; out (công khai) là khi cuối cùng cũng ở bên ngoài sự độc đoán và áp đặt của người ngoài. Hay nói một cách khác, out (công khai) có nghĩa là thực sự hòa mình vào (in) bên trong lĩnh vực của cái hữu hình, có thể nói được, dễ hiểu về mặt văn hóa. "Nói cách khác, việc công khai (comming out) xây dựng một closet (cái tủ) mà nó được cho là đã tự phá hủy và bản thân đã bộc lộ, "việc người đồng tính lần đầu xuất hiện với tư cách là một 'giống loài' chứ không phải là 'sự lầm lỡ nhất thời' cũng đánh dấu thời điểm người đồng tính phải giấu mình đi- biến mất vào trong closet (cái tủ)".

Hơn nữa, Seidman, Meeks và Traschen (1999) cho rằng "closet (cái tủ)" có thể đang trở thành một phép ẩn dụ cổ hủ trong cuộc sống của người Mỹ hiện đại vì hai lý do sau:

Đồng tính luyến ái ngày được bình thường hóa và sự hổ thẹn cùng với việc phải giữ bí mật thường đi kèm với nó dường như đang suy giảm.

Phép ẩn dụ về closet (cái tủ) xoay quanh quan điểm rằng kiểm soát kì thị là một cách sống. Tuy nhiên, việc đó có thể thực sự được sử dụng nhiều hơn tùy theo tình huống.

Ngày Công Khai Quốc Gia (National Coming Out Day)

Nhận được sự chú ý của những người thuộc cộng đồng LGBT và đồng minh dị tính vào ngày 11 tháng 10 hàng năm, Ngày Công Khai Quốc Gia là là ngày giúp công dân toàn cầu nhận thức về công khai tính dục (coming out) và thảo luận về các vấn đề LGBT trong cộng đồng chung cùng nỗ lực mang lại một gương mặt quen thuộc cho phong trào quyền LGBT. Đây là nguồn cảm hứng để tổ chức Tháng Lịch sử LGBT tại Hoa Kỳ vào tháng 10. Ngày này được thành lập vào năm 1988, bởi Robert Eichberg, người yêu của ông William Gamble và Jean O'Leary để kỷ niệm Tháng Ba Quốc Gia Tại Washington Vì Quyền Của Người Đồng Tính Nữ và Đồng Tính Nam Lần Thứ Hai (Second National March on Washington for Lesbian and Gay Rights) diễn ra một năm trước. Vào thời điểm đó, 500.000 người đã tuần hành trên đường phố Washington, DC, Hoa Kỳ, vì quyền bình đẳng của người đồng tính nam và đồng tính nữ. Tại Hoa Kỳ, nhóm Human Rights Campaign (Chiến dịch Nhân quyền) quản lý sự kiện này trong khuôn khổ Dự án Công Khai Quốc gia (National Coming Out Project), cung cấp nguồn lực cho các cá nhân LGBT, các cặp đôi, phụ huynh và con cái, cũng như bạn bè và người thân thẳng để thúc đẩy nhận thức về các gia đình LGBT có cuộc sống cởi mở. Candace Gingrich trở thành người phát ngôn của ngày này vào tháng 4 năm 1995. Mặc dù vẫn có tên là Ngày Công khai Quốc Gia, nó còn được tổ chức ở Canada, Đức, Hà Lan và Thụy Sĩ vào ngày 11 tháng 10 và ở Vương quốc Anh vào ngày 12 tháng 10. Để kỷ niệm Ngày Công khai Quốc Gia 11 tháng 10 năm 2002, Human Rights Campaign đã phát hành một album mang cùng tựa đề với chủ đề năm đó: Being Out Rocks. Các nghệ sĩ tham gia bao gồm Kevin Aviance, Janis Ian, k.d. lang, Cyndi Lauper, Sarah McLachlan, và Rufus Wainwright.

Truyền thông

Những cuộc công khai tính dục được biết đến rộng rãi

Quan chức Chính phủ và Ứng viên chính trị

Năm 1983, đại diện Đảng Dân chủ Hoa Kỳ, Gerry Studds từ Massachusetts, đã công khai là một người đồng tính trong vụ bê bối tình dục với thư ký tập sự quốc hội năm 1983. Năm 1987, Barney Frank, đại diện Hạ viện Hoa Kỳ cho khu vực quốc hội số 4 của Massachusetts, công khai mình là người đồng tính, trở thành thành viên thứ hai của phái đoàn Massachusetts Quốc hội Hoa Kỳ công khai. Năm 1988, Svend Robinson là thành viên đầu tiên của Hạ viện Canada công khai. Năm 1999, thượng nghị sĩ Úc Brian Greig, trở thành chính trị gia Úc đầu tiên công khai mình là người đồng tính trong bài phát biểu đầu tiên trước quốc hội. *Năm 2004, thống đốc bang New Jersey, Jim McGreevey, tuyên bố quyết định từ chức, công khai là "một người Mỹ đồng tính", và thừa nhận đã có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân với Golan Cipel, là một nam công dân và cựu binh Lực lượng Phòng vệ Israel, đây cũng chính là người McGreevey đã bổ nhiệm làm cố vấn an ninh tại quê hương New Jersey của ông.

Vận động viên

Vận động viên thể thao đồng đội chuyên nghiệp người Mỹ đầu tiên công khai tính dục là cựu trung vệ chạy NFL David Kopay, người đã chơi cho năm đội (San Francisco, Detroit, Washington, New Orleans và Green Bay) giữa năm 1964 và 1972. Anh ấy đã công khai vào năm 1975 trong một buổi phỏng vấn với tờ Washington Star. Vận động viên chuyên nghiệp đầu tiên công khai khi vẫn còn đang tham gia thi đấu là quần thủ tennis người Áo-Mỹ Martina Navratilova. Cô công khai là người đồng tính trong một cuộc phỏng vấn với tờ The New York Times năm 1981. John Amaechi, người đã chơi trong giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ NBA với đội Utah Jazz, Orlando Magic và Cleveland Cavaliers (cũng như là thi đấu quốc tế cho Panathinaikos BC trong Giải bóng rổ Hy Lạp và Kinder Bologna trong Giải bóng rổ Ý), công khai vào tháng Hai năm 2007 qua chương trình Outside the Lines của ESPN. Anh ấy cũng đã cho ra mắt một cuốn sách tựa Man in the Middle, xuất bản bởi ESPN Books (), kể về sự nghiệp và đời tư của mình khi là một cầu thủ bóng rổ chưa công khai tính dục. Anh ấy là vận động viên NBA (đang chơi hoặc đã giải nghệ) đầu tiên đã công khai.

Vào năm 2008, vận động viên nhảy cầu người Úc Matthew Mitcham trở thành người đồng tính đã công khai đầu tiên giành được huy chương vàng Olympic. Anh ấy đạt được thành tựu này tại Thế vận hội Bắc Kinh trong hạng mục nhảy cầu từ độ cao 10m.

Vận động viên hiệp hội thể thao Gaelic (GAA) cấp hạt đầu tiên công khai tính dục khi vẫn còn đang thi đấu là cầu thủ Hurling tên Dónal Óg Cusack vào tháng Mười năm 2009 trong các bản tiên duyệt của tự truyện anh ấy viết. Gareth Thomas, người đã chơi bóng bầu dục liên hiệp quốc tế và bóng bầu dục liên minh cho Xứ Wales, công khai tính dục trong một bài phỏng vấn với Daily Mail vào tháng Mười Hai năm 2009, khi sự nghiệp của anh ấy đang gần kết thúc.

Vào năm 2013, cầu thủ bóng rổ Jason Collins (thành viên đội Washington Wizards) công khai mình là người đồng tính, trở thành vận động viên nam đầu tiên đang thi đấu chuyên nghiệp cho một giải đấu thể thao nhà nghề lớn ở Bắc Mỹ công khai là người đồng tính.

Vào tháng Tám năm 2013, đô vật WWE Darren Young công khai tính dục, trở thành đô vật chuyên nghiệp đang thi đấu đầu tiên công khai là người đồng tính.

Vào ngày 09 tháng Hai năm 2014, cựu tiền vệ phòng ngự bang Missouri Michael Sam công khai mình là người đồng tính. Anh ấy đầu quân cho St. Louis Rams vào ngày 10 tháng Năm năm 2014, với lượt tuyển chọn thứ 249 ở vòng thứ bảy, khiến Sam trở thành vận động viên đồng tính nam đầu tiên được tuyển bởi một đội thuộc NFL. Anh ấy được St. Louis nhượng lại và đội dự bị của Dallas Cowboys đã khước từ quyền tuyển chọn anh. Sam về với đội Montreal Alouettes, nhưng sau đó giải nghệ.

Nghệ sĩ và những người trong ngành giải trí

Vào năm 1997, trên chương trình The Oprah Winfrey Show, nữ diễn viên Ellen DeGeneres công khai mình là một người đồng tính nữ. Sự công khai tính dục ngoài đời thật của cô được lồng ghép và tái hiện lại trong bộ phim hài kịch tình huống tên Ellen tập "The Puppy Episode", ở đó nhân vật ghép nhân danh Ellen Morgan, đóng bởi DeGeneres, công khai tính dục của bản thân qua hệ thống truyền thanh công cộng của sân bay.

Vào ngày 29 tháng Ba năm 2010, ca sĩ nhạc pop người Puerto Rico Ricky Martin đã công khai qua một bài viết trên trang web chính thức của anh ấy bằng cách phát biểu rằng "Tôi tự hào nói rằng tôi là một người đàn ông đồng tính may mắn. Được là chính tôi, đó là một điều phước lành." Martin đã nói rằng "những năm tháng chìm trong im lặng và suy tư đã khiến tôi mạnh mẽ hơn và nhắc nhở tôi rằng sự chấp nhận phải đến từ nội tại và rằng sự thật này cho tôi sức mạnh để chinh phục những cảm xúc tôi thậm chí còn không biết là chúng có tồn tại."

Ca sĩ Adam Lambert công khai sau khi hình ảnh anh ấy hôn một người đàn ông khác bị lan truyền rộng rãi trong khi còn đang là thí sinh mùa thứ tám của American Idol.

Vào tháng Sáu năm 2019, rapper người Mỹ Lil Nas X công khai, mà sau đó khiến anh trở thành người LGBTQ công khai đầu tiên nhận giải Bài hát của Năm tại MTV VMAs 2019 và một đề cử ở giải CMAs.

Quân nhân

Vào năm 1975, Leonard Matlovich, trong khi đang phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ, đã công khai tính dục nhằm thách thức chính sách cấm người đồng tính trong hàng ngũ của quân đội Hoa Kỳ. Tin tức được lan rộng, bao gồm một bài viết cho trang bìa tạp chí Time và một bộ phim truyền hình trên NBC.

Vào năm 2011, khi mà Hoa Kỳ chuẩn bị dỡ bỏ các hạn chế đối với sự phục vụ trong quân đội của những người đồng tính đã công khai, hạ sĩ không quân Randy Phillips đã tiến hành một chiến dịch mạng xã hội nhằm kêu gọi thêm sự ủng hộ đối với việc công khai tính dục. Video mà anh ấy đăng tải lên YouTube ghi lại khoảnh khắc anh nói với bố mình anh là người đồng tính đã trở thành một hiện tượng mạng xã hội. Trong bản tổng kết của một nhà báo, anh ấy "đã thật xuất sắc trong cách sử dụng mạng xã hội cũng như đã căn thời điểm thích hợp để đặt bản thân mình làm trung tâm của một câu chuyện thành công trong đấu tranh vì dân quyền".

Mục sư

Vào tháng Mười năm 2010, mục sư đại giáo đoàn, Giám mục Jim Swilley công khai tính dục với giáo đoàn của mình. Video trên Youtube của buổi lễ nhà thờ đã nhanh chóng được lan truyền. Các buổi phỏng vấn với tạp chí People, Joy Behar, Don Lemon,, ABC News và NPR tập trung vào những vụ tự sát do bắt nạt đã thúc giục Giám mục Swilley "công khai". Năm năm sau, ông thừa nhận những cái giá phải trả vì việc đó, nhưng cũng thừa nhận cả sự tự do mà ông có được. "Để có được tự do là điều mà tôi sẽ không bao giờ đánh đổi cho bất cứ thứ gì." "Kết hôn với tư cách là chính mình, thuyết giáo như chính bản thân và sống cuộc đời mình là chính mình thì tốt hơn vô hạn so với việc làm những điều đó dưới vỏ bọc của một người khác." Con trai của Giám mục Swilley, Jared Swilley, người chơi bass và giọng ca chính của ban nhạc Black Lips, đã nói, "Đó chắc chắn là một cú sốc, nhưng tôi thực sự mừng khi ông chia sẻ với tôi. Giờ đây, tôi thấy gần gũi hơn với ông..." Người con trai khác của Giám mục Swilley, Judah Swilley, một người tham gia trong đoàn thành viên chương trình Preachers of Atlanta của đài Oxygen, đang đương đầu với sự ghét sợ đồng tính trong nhà thờ.

Nhà báo

Vào tháng Tám năm 2019, một nhà báo và phát thanh viên thể thao làm việc tại The GuardianESPN đã công khai tính dục, công bố rằng cô ấy giờ là Nicky Bandini và trước đó đã viết bài dưới cái tên Paolo Bandini. Nhà báo chuyên về bóng đá đã nhấn mạnh qua một video trên Twitter và một bài báo đi kèm trên tờ The Guardian rằng cô mất vài năm để công khai là người chuyển giới. Bandini cũng đã trải qua bức bối giới trong ba thập kỉ rưỡi trước khi cuối cùng thừa nhận với thế giới.

Những mô tả về việc công khai

Vào năm 1966, một bộ phim nổi tiếng của nước Anh mang tên Beautiful Thing đã có một cách miêu tả tích cực về hành trình chấp nhận bản dạng tính dục của hai cậu bé vị thành viên. Vào năm 1987, tập phim ‘Lise, Pierre et Marcel" gồm 2 phần của series phim truyền hình Quebec, Avec un grand A, đã thể hiện một người đàn ông đã kết hôn và vẫn giấu đi tính dục bản thân, phải công khai khi người vợ phát hiện ra anh đang ngoại tình với một người đàn ông khác. Trong một tập phim được đề cử Giải Emmy, "Gay Witch Hunt", của The Office, Michael đã vô tình công khai tính dục của Oscar cho cả văn phòng.

Tác giả Rodger Streitmatter đã miêu tả việc Ellen DeGeneres công khai tính dục trên truyền thông, cũng như trong tập "The Puppy Episode" của Ellen, là "không còn bàn cãi gì nữa, xếp hạng nhất về tính công khai trong lịch sử đồng tính", thay đổi cách truyền thông khắc họa người đồng tính nữ trong văn hóa phương Tây.

Vào năm 1999, Queer as Folk của Russell T Davies, một series truyền hình nổi tiếng trên Channel 4 của Vương quốc Anh, được khởi chiếu và tập trung chủ yếu vào cuộc sống của những người đồng tính nam trẻ tuổi; cụ thể hơn là tập trung vào một cậu bé 15 tuổi trải qua quá trình hé lộ tính dục của bản thân cho những người xung quanh. Cốt truyện này cũng xuất hiện rõ ràng trong phiên bản Mỹ của Queer as Folk, ra mắt vào năm 2000.

Chương trình truyền hình The L Word, ra mắt năm 2004, tập trung vào cuộc sống của một nhóm người đồng tính và song tính nữ, và chủ đề công khai tính dục xuất hiện thường xuyên trong cốt truyện của nhiều nhân vật.

Coming Out, khởi chiếu năm 2013, là chương trình truyền hình đầu tiên ở Quebec nói về đồng tính.

Mùa thứ ba của series phim Na Uy dành cho thiếu niên, SKAM, xoay quanh việc công khai tính dục của nhân vật chính cũng như mối quan hệ của cậu với một chàng trai khác.

Bộ phim Love, Simon, dựa trên cuốn sách Simon vs. the Homo Sapiens Agenda, ra mắt năm 2018 và là bộ phim đầu tiên của một hãng phim lớn nói về quá trình công khai của một thiếu niên đồng tính.

Cách dùng khác trong truyền thông, xuất bản và vận động LGBT

"Out" (hay công khai) là một từ hoặc tiền tố được dùng phổ biến trong các tiêu đề của sách, phim, tạp chí định kì, tổ chức, và chương trình truyền hình có chủ đề về LGBT. Một số ví dụ nổi bật là tạp chí Out, tạp chí không còn hoạt động OutWeek Magazine, và OutTV.

Những cách dùng ngoài LGBT

Trong những ngữ cảnh chính trị, xã giao, hay thậm chí là hài hước, "công khai" ("coming out") có nghĩa rộng là sự tự tiết lộ về các hành vi, niềm tin, mối quan hệ, sở thích, bản dạng, và mối quan tâm bí mật mà có thể gây ra ngạc nhiên hoặc mang đến cảm giác xấu hổ. Một số ví dụ bao gồm: "công khai là người nghiện rượu", "công khai là người tham gia BDSM", "công khai bước khỏi tủ đựng chổi" (hay công khai là phù thủy), "công khai là người theo đảng bảo thủ", "công khai là người khuyết tật", "công khai là người theo đảng tự do", "công khai là người liên giới tính", "công khai là người rối loạn đa nhân cách", "công khai là người đa ái", "công khai là người làm công việc tình dục", và "công khai bước ra khỏi bóng tối" như một người nhập cư trái phép ở Hoa Kỳ. Cụm từ cũng được sử dụng bởi các thành viên trong những cộng đồng rối loạn nhân dạng toàn vẹn cơ thể (body integrity dysphoria) trên mạng để nhắc tới quá trình tiết lộ với bạn bè và người thân về tình trạng của họ.

Với những ẩn dụ liên quan, cách dùng từ này cũng bao gồm cả chủ nghĩa vô thần, ví dụ như "công khai là người vô thần". Một sáng kiến nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về tự do ý nghĩ và vô thần, tên là "Out Campaign" (tạm dịch: "Chiến dịch Công khai"), đã vận dụng một cách phong phú ẩn dụ về "công khai". Chiến dịch này được khởi xướng bởi Robin Elisabeth Cornwell, và được hưởng ứng bởi người vô thần nổi tiếng Richard Dawkins, người đã nói rằng "có một số lượng lớn những người vô thần kín cần phải ‘công khai’".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công khai tính dục** (_coming out of the closet_, thường được nói ngắn gọn là **coming out**), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng
**Xu hướng tính dục** là một loại hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) một cách lâu dài đối với những người thuộc giới tính hoặc giới khác, thuộc cùng
**Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã** là một chẩn đoán sức khỏe tâm thần gây nhiều tranh cãi, được đưa vào _Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần_
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**Yếu tố môi trường** ảnh hưởng đến quá trình hình thành **xu hướng tính dục** đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành xu hướng
Có những khó khăn trong xác định **nhân khẩu học** **xu hướng tính dục** vì những lý do sau đây. Một trong những lý do chính làm cho kết quả của những thống kê số
**Các thang đo xu hướng tính dục** là các sơ đồ phân loại những xu hướng tính dục khác nhau. Định nghĩa của thuật ngữ _xu hướng tính dục_ thường bao gồm hai thành phần:
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Song tính luyến ái** (tiếng Anh: **Bisexuality**) chỉ sự hấp dẫn hoặc hành vi tình cảm hoặc tình dục với giới nam và nữ hoặc nhiều hơn một giới. "Song tính" cũng có thể được
thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người **Tính dục ở loài người** là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc
thumb|right|Hai người đồng tính nam hôn nhau trong một buổi diễu hành đồng tính. thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nam được tạo nên từ hai biểu tượng của [[sao Hỏa lồng vào
thumb|_[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene_ bởi Simeon Solomon, 1864]] thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào
Lĩnh vực tâm lý học đã nghiên cứu sâu rộng về đồng tính luyến ái như một xu hướng tính dục của con người. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã đưa đồng tính luyến
nhỏ|Lá cờ nhằm đại diện cho phổ vô tính **Bán vô tính**, hay còn được gọi là **Bán tính** (tiếng Anh: **Gray-asexuality** hoặc **Graysexuality**, hay **Greysexuality, Grey-asexuality**) là một xu hướng tính dục nằm trong
**Tính dục nữ của con người** bao gồm một loạt các hành vi và quá trình, trong đó có: xu hướng tính dục và hành vi tình dục của nữ, các khía cạnh sinh lý,
nhỏ|220x220px|Cờ của cộng đồng người Pansexual nhỏ|Cờ của cộng đồng người Omnisexual **Toàn tính luyến ái** (tiếng Anh: **Pansexuality** và **Omnisexuality**) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới
Trước đây, các tài liệu cho rằng **tính dục của người chuyển giới** (tiếng Anh: transgender sexuality) tách biệt với khái niệm tính dục truyền thống. Trong hầu hết thế kỷ 20, khái niệm này
nhỏ|Áp phích nhằm tuyên truyền về [[tình dục an toàn cho đối tượng MSM ở Việt Nam]] **Nam có quan hệ tình dục với nam** hay **MSM** (tiếng Anh: _Men who have sex with men_
**Thuyết ngoại di truyền về đồng tính** là các nghiên cứu về những thay đổi trong biểu hiện gen hoặc kiểu hình tế bào gây ra bởi các cơ chế khác ngoài những thay đổi
nhỏ|phải|Các nhà tranh đấu cho quyền được tình dục gồm [[Allison Wolfe, Anna Oxygen, Jen Smith]] **Quyền về tình dục** (_Right to sexuality_) hay **quyền được tình dục** hoặc **quyền tình dục** là quyền con
Đây là **danh sách các cơ quan chính trị** do một người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hoặc chuyển giới nắm giữ, với thông tin chi tiết về người nắm giữ chức
nhỏ|phải|Những nhà tranh đấu nữ quyền ở Ukraina nhỏ|phải|Tranh đấu nữ quyền ở Paris **Nữ quyền tình dục** (_Sex-positive feminism_/_Sex-radical feminism_) là một phong trào tranh đấu cho nữ quyền tập trung vào ý tưởng
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ cố gắng tự tử và có ý tưởng tự tử ở giới trẻ đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) cao
**Đơn tính luyến ái** (tiếng Anh: **monosexuality**) là sự hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục với những người thuộc duy nhất một giới hoặc giới tính nhất định. Người đơn tính có
**Vô tính luyến ái** (tiếng Anh: _Asexuality_) là sự không bị hấp dẫn tình dục, hoặc không hay ít quan tâm đến các hoạt động tình dục. Nó có thể được xem là sự không
nhỏ|phải|Công việc lau chùi xe cộ không quá đặc biệt, nhưng với xu hướng "_tình dục hoá_", hình ảnh những cô gái xịt rửa xe đã trở thành [[biểu tượng gợi cảm, gọi mời bởi
Việt Nam không công nhận hôn nhân cùng giới, kết hợp dân sự, chung sống có đăng ký hay bất kỳ hình thức tương tự nào khác cho các cặp đôi cùng giới. Hiến pháp
nhỏ|351x351px|**Quyền LGBT ở Liên Hợp Quốc** Các cuộc thảo luận về **quyền LGBT ở Liên hợp quốc** bao gồm các nghị quyết và tuyên bố chung tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và Hội
Hai con sư tử đang giao cấu ở [[Maasai Mara, Kenya]] phải|nhỏ| "Sự giao hợp giữa nam và nữ" (tranh [[Leonardo da Vinci vẽ khoảng 1492), mô tả những gì xảy ra bên trong cơ
thumb|Những nữ thí sinh trong một [[cuộc thi áo tắm, trong mối liên hệ này thì những người phụ nữ được đánh giá cao vì những đặc điểm thân thể hấp dẫn hơn là các
**Quấy rối tình dục** là một hình thức quấy nhiễu mà đặc biệt là hướng về giới tính của người có liên can. Ngày nay trong phần lớn các nước phương Tây quấy rối tình
**Công nghệ tình dục** (hay **công nghệ hỗ trợ tình dục**) là những công nghệ được thiết kế để tăng cường, đổi mới hoặc thay đổi theo một cách nào đó các hoạt động và
thumb|[[Pew Research Center|Pew Global Attitudes Project 2019: Đồng tính luyến ái có nên được chấp nhận trong xã hội? Phần trăm người phản hồi trả lời rằng nên được chấp nhận: ]] **Thái độ xã
**Đồng tính luyến ái** được coi là một đề tài cấm kỵ trong xã hội dân sự và chính phủ **Ấn Độ**. Bàn luận công khai về đồng tính luyến ái ở Ấn Độ bị
thumb|[[Làng Greenwich, một khu dân cư đồng tính ở Manhattan, nơi có quán bar Stonewall Inn, được trang trí bằng cờ tự hào cầu vồng.]] **Cộng đồng LGBT** (còn được gọi là **cộng đồng LGBTQ+**,
Quyền **đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới** (tiếng Trung Quốc: _女同性戀者、男同性戀者、雙性戀者 與 跨性別者_; tiếng Anh: _lesbian, gay, bisexual and transgender_) ở **Hồng Kông** có thể phải đối mặt với những
nhỏ|Cờ của cộng đồng người Androphilie/Androsexual nhỏ|Cờ của cộng đồng người Gynephilie/Gynesexual **Sự hấp dẫn với tính nam và sự hấp dẫn với tính nữ** là những thuật ngữ được sử dụng trong khoa học
**Vương tôn Albert Victor, Công tước xứ Clarence và Avondale** (Albert Victor Christian Edward; 8 tháng 1 năm 1864 – 14 tháng 1 năm 1892) là con trai trưởng của Thân vương và Vương phi
**Tính dục theo giới** là khái niệm để chỉ hiện tượng giới và tính dục được xem như hai khái niệm tương đồng, khi mà vai trò giới trong cuộc sống của một cá nhân
thumb|Cặp đồng tính nữ và con của họ. Nhiều người đồng tính, song tính và chuyển giới có thể có con riêng với vợ/chồng cũ hoặc nhận con nuôi. Tuy nhiên, việc nhận con nuôi
**Jeanne xứ Valois, Nữ Công tước xứ Berry** (tiếng Pháp: _Jeanne de Valois, Duchesse de Berry_; 23 tháng 4 năm 1464 - 4 tháng 2 năm 1505), là một Vương nữ người Pháp, giữ tước
**Arthur của Liên hiệp Anh, Công tước của Connaught và Strathearn** (Arthur William Patrick Albert; 01 tháng 5 năm 1850 - 16 tháng 1 năm 1942), là ngươi con thứ 7 và con trai thứ
Mô hình biếm họa chỉ về cảnh biến thái. **Biến thái tính dục** hay **trụy lạc** là một khái niệm dùng để chỉ về những loại hành vi tình dục của con người mang tính
**Louise Renée de Penancoët de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth** (tiếng Pháp: _Louise Renée de Penancoët de Keroual_; 6 tháng 9, năm 1649 - 14 tháng 11, năm 1734), là một quý tộc người Pháp,
**Henry Stewart** (hay **Henry Stuart**), tước hiệu **Công tước xứ Albany** (7 tháng 12 năm 1545 - 10 tháng 2 năm 1567), thường được gọi là **Huân tước Darnley** trước 1565, là phu quân của
thumb|Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).|thế= nhỏ|Biểu tượng của phi nhị giới. **Giới tính xã hội**
thế=One of the most famous depictions of Heracles, originally by Lysippos (marble, Roman copy called Hercules Farnese, 216 CE)|nhỏ|Trong thần thoại hy lạp, [[Heracles đại diện cho tính Nam tính của thần Apollo.]] **Nam tính**
**Bài trừ song tính luyến ái** (tiếng Anh: **bisexual erasure**, hoặc **bisexual invisibility**) là khuynh hướng làm ngơ, loại trừ, làm biến chất hoặc giải thích lại những bằng chứng về sự tồn tại của
phải|Một postcard đầu thế kỷ 20 đề cập tới vấn đề mang thai ngoài ý muốn. **Giáo dục giới tính** là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:%22Colored%22_drinking_fountain_from_mid-20th_century_with_african-american_drinking.jpg|thế=|nhỏ|272x272px|Một người Mỹ gốc Phi uống nước từ một bình nước tách riêng theo chủng tộc dán nhãn "[cho người] Da màu", ở [[Thành phố Oklahoma, .]] **Phân biệt đối xử** là quá trình tạo