✨Tính dục ở loài người

Tính dục ở loài người

thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người Tính dục ở loài người là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam giới và nữ giới. Tình dục là một khái niệm có nội hàm rộng, vừa phản ánh mối quan hệ giới tính, vừa chứa đựng những yếu tố hữu hình và ẩn giấu của cá nhân. Trong tiếng Việt, tính dục, đặc biệt khi chỉ đề cập tới mối quan hệ giới tính, còn được gọi là tình dục.

Khái niệm tính dục bao hàm: Nhận thức và cảm giác về cơ thể mình và cơ thể người khác Tính chất tâm lý bên trong và hành vi ứng xử bên ngoài Cảm xúc, suy nghĩ và nhu cầu ân ái, gần gũi về tình cảm với một ai đó. Cảm giác hấp dẫn tình dục với người khác *Các tiếp xúc tình dục: từ động chạm cơ thể đến giao hợp

Các cẩm nang về tình dục đã có từ thời cổ đại, tuy nhiên chuyên ngành nghiên cứu tình dục học được coi là mới xuất hiện từ cuối thế kỷ 19.

Phân loại xu hướng tính dục

Về xu hướng tính dục có thể chia ra thành: Dị tính luyến ái. Đồng tính luyến ái. Song tính luyến ái. Toàn tính luyến ái. *Vô tính luyến ái.

Sự phát triển

Xu hướng tính dục

Có nhiều bằng chứng ủng hộ các nguyên nhân bẩm sinh của xu hướng tính dục hơn so với những nguyên nhân học được, đặc biệt là đối với nam giới. Bằng chứng này bao gồm mối tương quan văn hóa giữa đồng tính luyến ái và sự phi định chuẩn giới thời thơ ấu, ảnh hưởng di truyền vừa phải ở các nghiên cứu về sinh đôi, bằng chứng về tác động nội tiết tố trước khi sinh đối với tổ chức não, hiệu ứng thứ tự sinh sản anh em, và phát hiện rằng trong một số hiếm trường hợp khi trẻ sơ sinh trai được nuôi dưỡng như con gái do biến dạng thể chất, họ vẫn bị thu hút bởi phụ nữ. Các nguyên nhân xã hội giả thuyết chỉ được hỗ trợ bởi bằng chứng yếu, bị bóp méo bởi nhiều yếu tố gây nhiễu.

Bằng chứng đa văn hóa cũng nghiêng nhiều hơn về các nguyên nhân phi xã hội. Các nền văn hóa rất khoan dung với đồng tính luyến ái không có tỷ lệ cao hơn đáng kể. Hành vi đồng tính luyến ái tương đối phổ biến giữa các bé trai trong các trường nội trú đơn giới ở Anh, nhưng những người Anh trưởng thành theo học các trường này không còn xu hướng thực hiện hành vi đồng tính luyến ái hơn những người không theo học. Trong một trường hợp đặc biệt, theo nghi thức người Sambia yêu cầu các bé trai thực hiện hành vi đồng tính luyến ái trong thời niên thiếu trước khi họ có bất kì sự tiếp cận với phụ nữ, nhưng hầu hết các bé trai đều trở thành người dị tính.

Người ta không hoàn toàn hiểu tại sao gen quy định đồng tính luyến ái vẫn tồn tại trong nhóm gen. Một giả thuyết liên quan đến việc chọn lọc dòng dõi, cho thấy rằng người đồng tính đầu tư đủ nhiều vào người thân của họ để bù đắp chi phí cho việc không trực tiếp sinh sản. Giả thuyết này không được ủng hộ bởi các nghiên cứu ở các nền văn hóa phương Tây, nhưng một số nghiên cứu ở Samoa đã tìm thấy một số hỗ trợ cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác liên quan đến các gen đối kháng tính dục gây ra đồng tính luyến ái khi được biểu hiện ở nam giới nhưng tăng khả năng sinh sản khi biểu hiện ở phụ nữ. Các nghiên cứu ở cả các nền văn hóa phương Tây và phi phương Tây đã tìm thấy sự hỗ trợ cho giả thuyết này.

Sự đa dạng về giới

Thuyết tâm lý tồn tại liên quan đến sự phát triển và biểu hiện của sự đa dạng giới trong tính dục của con người. Một số trong đó (bao gồm các lý thuyết tân phân tích, lý thuyết sinh học xã hội, lý thuyết học tập xã hội, lý thuyết vai trò xã hội và lý thuyết kịch bản) đồng tình trong việc dự đoán rằng nam giới có vẻ chấp thuận quan hệ tình dục bình thường (tình dục xảy ra ngoài luồng một mối quan hệ ổn định, ràng buộc như hôn nhân) và cũng có vẻ bừa bãi hơn (có số lượng bạn tình nhiều hơn) so với phụ nữ. Những lý thuyết này chủ yếu phù hợp với sự khác biệt được thấy trong thái độ của nam giới và phụ nữ đối với quan hệ tình dục bình thường trước hôn nhân ở Hoa Kỳ. Các khía cạnh khác của tính dục con người, chẳng hạn như thỏa mãn tình dục, tần suất quan hệ tình dục bằng miệng, thái độ đối với đồng tính luyến ái và thủ dâm cho thấy giữa nam và nữ có ít nhất hoặc không có sự khác biệt hiện hữu. Sự đa dạng giới liên quan đến số lượng bạn tình là khiêm tốn, với nam giới có xu hướng có hơi nhiều hơn nữ giới.

Các khía cạnh sinh lý và sinh học

Cũng như nhiều loài có vú khác, loài người được xếp vào nhóm giới tính nam hay giới tính nữ, với một số nhỏ (khoảng 1% hoặc 0,018%) là các cá nhân liên giới tính mà phân loại giới tính có thể không rõ ràng.

Các khía cạnh sinh học của tính dục con người liên quan đến hệ thống sinh sản, chu kỳ phản ứng tình dục và các yếu tố ảnh hưởng đến các khía cạnh này. Chúng cũng liên quan tới ảnh hưởng của các yếu tố sinh học đến các khía cạnh khác của tính dục, chẳng hạn như phản ứng hữu cơ và thần kinh, tính di truyền, vấn đề nội tiết tố, vấn đề giới tính và rối loạn chức năng tình dục.

Giải phẫu và chức năng sinh sản

Con đực và con cái đều tương tự nhau về mặt giải phẫu; điều này mở rộng đến một mức độ nào đó đối với sự phát triển của hệ thống sinh sản. Khi trưởng thành, chúng có các cơ chế sinh sản khác nhau để thực hiện các hành vi tình dục và để sinh sản. Đàn ông và phụ nữ phản ứng với các kích thích tình dục theo kiểu giống nhau với những một số khác biệt nhỏ. Phụ nữ có chu kỳ sinh sản hàng tháng, trong khi đó chu kỳ sản xuất tinh trùng của nam giới liên tục hơn.

Não bộ

Vùng dưới đồi là phần quan trọng nhất của não cho hoạt động tình dục. Đây là một vùng nhỏ ở đáy não bao gồm một số nhóm cơ quan tế bào thần kinh nhận đầu vào từ hệ viền. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở động vật thí nghiệm, phá hủy một số khu vực nhất định của vùng dưới đồi gây ra sự loại bỏ hành vi tình dục. Vùng dưới đồi quan trọng vì mối quan hệ của nó với tuyến yên nằm bên dưới nó. Tuyến yên tiết ra các hormone được sản xuất tại vùng dưới đồi và ở chính nó. Bốn hormone tình dục quan trọng là oxytocin, prolactin, hormone kích thích nang trứng và hormone tạo thể vàng. Hormone này cũng được giải phóng ở phụ nữ khi họ sinh con hoặc đang cho con bú. Cả prolactin và oxytocin đều kích thích tiết sữa ở phụ nữ. Hormone kích thích nang trứng (FSH), chịu trách nhiệm rụng trứng ở phụ nữ, hoạt động bằng cách kích hoạt sự trưởng thành của trứng; ở nam giới nó kích thích sản xuất tinh trùng. Hormone tạo thể vàng (LH) kích hoạt quá trình rụng trứng, đó là sự phóng thích của trứng trưởng thành.

Vành nâng lên ở biên giới của trục và quy đầu được gọi là chuỗi tràng hạt dương vật. Niệu đạo chạy qua trục, cung cấp lối ra cho tinh trùng và nước tiểu. Gốc bao gồm các đầu mở rộng của các thể hang, quạt ra ngoài tạo thành mấu và gắn vào xương mu và đầu nở ra của thể xốp (củ). Gốc được bao bọc bởi hai cơ; cơ hành và cơ háng, giúp đi tiểu và xuất tinh. Dương vật có bao quy đầu che kín quy đầu; đôi khi được loại bỏ bằng cách cắt bao quy đầu vì lý do y tế, tôn giáo hoặc văn hóa.

Giải phẫu cơ quan sinh dục bên trong ở nam

nhỏ|Hệ thống sinh sản nam. Cấu trúc sinh sản bên trong của nam giới là tinh hoàn, hệ thống ống dẫn, tuyến tiền liệt, túi tinh, và tuyến Cowper.

Tuyến tiền liệt và túi tinh sản xuất tinh dịch trộn với tinh trùng để tạo ra tinh dịch. Đến tuổi dậy thì, kích cỡ của mu sẽ có sự phát triển. Đây cũng là điểm tận cùng của nhiều dây thần kinh; vì vậy, vùng này rất nhạy cảm đối với sự kích thích. Khi ở trạng thái không có kích thích, môi nhỏ sẽ che phủ cửa vào âm đạo và lỗ niệu, nhằm bảo vệ hai cơ quan trên. Tại đáy của môi nhỏ, tuyến Bartholin có nhiệm vụ tiết một lượng nhỏ dung dịch kiềm vào trong âm đạo thông qua các ống; vì tinh trùng không thể sống trong môi trường axit nên lượng dung dịch kiềm này sẽ giúp trung hòa tính axit của âm hộ và âm đạo. Tuy đầu âm vật có kích thước nhỏ nhưng với cấu trúc đặc biệt, cơ quan này có thể tự kéo dài và trở nên cương cứng. Chức năng duy nhất được ghi nhận của đầu âm vật chính là khoái cảm tình dục, đây là nguồn chính tạo nên sự cực khoái ở phụ nữ. Một điểm cần lưu ý, âm vật cũng là nơi mà bựa sinh dục, chất dịch dạng sệt, màu trắng ngà, tích tụ lại. Vú là tuyến mồ hôi được hiệu chỉnh và được cấu thành từ các mô sơ cùng mỡ. Không chỉ có vai trò trong cấu tạo, mỡ và mô xơ còn giúp nâng đỡ vú, cũng như chứa các đầu dây thần kinh, mạch máu và mạch bạch huyết. và điều này vẫn đúng ở nhiều nền văn hoá khác nhau. Ở phụ nữ, sự kích thích đầu vú dường như sẽ dẫn đến sự kích hoạt vùng cảm giác đối với các cơ quan sinh dục ở vỏ não (tương tự, khi kích thích âm vật, âm đạo, và cổ tử cung thì vùng cảm giác này của não cũng sẽ được kích hoạt). Điều này có thể trả lời cho câu hỏi tại sao nhiều phụ nữ cảm thấy hưng phấn khi được kích thích đầu vú và lý giải cho việc chỉ cần thông qua kích thích đầu vú, một số phụ nữ đã có thể đạt đến cực khoái.]] Các cơ quan sinh sản bên trong của nữ giới bao gồm: âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng. Âm đạo là một đường ống giống dạng vỏ dao, kéo dài từ âm hộ đến cổ tử cung. Âm đạo tiếp nhận dương vật trong giao hợp; đồng thời, đây cũng là nơi mà tinh trùng lưu lại. Âm đạo còn là đường sinh con tự nhiên; trong quá trình chuyển dạ và sinh nở, âm đạo có thể giãn nở tới . Âm đạo nằm giữa bàng quang và trực tràng. Thông thường, âm đạo sẽ khép, thu hẹp lại. Tuy nhiên khi có hưng phấn tình dục, âm đạo sẽ mở ra, dài ra và sản sinh ra dịch bôi trơn để cho phép đưa dương vật tiến vào. Thành âm đạo được cấu thành từ ba lớp; các vi khuẩn tự nhiên bên trong âm đạo ngăn chặn sự sinh sôi của nấm men.

Tử cung hay dạ con là một cơ quan rỗng, được cấu thành tử các cơ. Đây là nơi mà trứng (noãn) đã được thụ tinh sẽ làm tổ và phát triển thành bào thai.

Rối loạn chức năng tình dục và các vấn đề tình dục thường gặp

Theo DSM-IV-TR (Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn tâm thần), rối loạn tình dục là các chướng ngại hiện hữu trong ham muốn tình dục và các biến đổi tâm sinh lý. Biểu lộ sự đặc trưng thông chu kỳ đáp ứng tình dục, các rối loạn tình dục sẽ gây ra các cơn đau, sự lo lắng, nỗi buồn rõ rệt cũng như khó khăn trong việc tương tác giữa các cá nhân. Rối loạn chức năng tình dục là hệ quả của các rối loạn thể chất lẫn tâm lý. Các tác nhân về thể chất bao gồm mất cân bằng hormone, tiểu đường, các bệnh tim mạch, v. v. Các tác nhân về tâm lý gồm có căng thẳng, lo âu, trầm cảm, v. v. Rối loạn chức năng tình dục có thể xuất hiện ở cả nam và nữ. Ở phụ nữ, có bốn loại rối loạn tình dục chính: rối loạn ham muốn tình dục, rối loạn hưng phấn tình dục, rối loạn cực khoái tình dục, và rối loạn đau khi quan hệ tình dục.

Ở nam giới, có ba loại rối loạn tình dục thường gặp, bao gồm: rối loạn ham muốn tình dục, rối loạn xuất tinh, và rối loạn cương dương. Sự thiếu ham muốn tình dục ở nam giới là kết quả của việc mất đi các ham muốn, động lực để quan hệ tình dục, cũng như nồng độ testosterone thấp. Ngoài ra, các tác nhân tâm lý như lo âu, và trầm cảm cũng có thể góp phần dẫn đến tình trạng trên. Chứng rối loạn tình dục phổ biến tiếp theo là rối loạn xuất tinh; rối loạn này có 3 trường hợp điển hình, gồm: xuất tinh ngược, xuất tinh chậm, và xuất tinh sớm. Và rối loạn cương dương xảy ra trong trường hợp dương vật không thể cương cứng hoặc không thể duy trì sự cương cứng trong lúc quan hệ tình dục.

Khía cạnh tâm lý học

Là một dạng hành vi, những khía cạnh tâm lý của các biểu hiện tính dục đã được nghiên cứu trong bối cảnh liên quan đến tình cảm, bản dạng giới, sự tương tác gần gũi mật thiết giữa các cá nhân với nhau và hiệu quả sinh sản theo thuyết Darwin. Tính dục ở con người tạo ra những phản ứng tâm lý và tình cảm sâu sắc. Một số nhà lý luận học xác định tính dục là nguồn gốc trung tâm của nhân cách con người. Các nghiên cứu tâm lý về tính dục tập trung vào những yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi và trải nghiệm tình dục.

Bản dạng giới là sự tự nhận thức của một người về giới của chính họ, cho dù là nam, nữ hay phi nhị nguyên giới. Bản dạng giới có thể tương đồng với giới tính được chỉ định khi sinh hoặc có thể khác với giới tính đó. Tất cả các xã hội đều có một tập hợp các phạm trù giới có thể làm cơ sở hình thành bản sắc xã hội của một người trong mối quan hệ với những người khác trong xã hội.

Hành vi tình dục và các mối quan hệ thân mật bị ảnh hưởng mạnh bởi xu hướng tính dục cá nhân.

Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn lâu dài về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người khác giới, cùng giới hoặc cả hai giới.

Quan niệm sai lầm rằng đồng tính luyến ái hệ quả của sự đảo lộn vai trò giới được củng cố bởi các phương tiện truyền thông khi họ miêu tả đồng tính nam là yếu ớt ẻo là và đồng tính nữ là nam tính. Tuy nhiên, sự hợp hay không hợp với định kiến giới của một người không phải lúc nào cũng thể hiện đúng về xu hướng tình dục của họ. Xã hội tin rằng nếu một người đàn ông nam tính thì anh ta là người dị tính, và nếu một người đàn ông nữ tính thì anh ta là đồng tính. Không có bằng chứng chắc chắn rằng xu hướng đồng tính hoặc song tính phải gắn liền với các vai trò giới không điển hình. Đến đầu thế kỷ 21, đồng tính không còn được coi là một bệnh lý nữa. Các lý thuyết đã liên kết các yếu tố, bao gồm di truyền, giải phẫu, thứ tự sinh và hormone trong môi trường trước khi sinh, với xu hướng đồng tính.

Giới tính và độ tuổi

Tình dục ở trẻ em

Trước khi Sigmund Freud xuất bản Ba tiểu luận về Lý thuyết tính dục vào năm 1905, trẻ em thường được cho là vô tính, không có khái niệm về tình dục cho đến khi trưởng thành sau này. Sigmund Freud là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên coi trọng vấn đề tính dục ở trẻ em. Những ý tưởng của ông, chẳng hạn như sự phát triển tâm lý và phức cảm Oedipus, đã gây ra nhiều tranh luận nhưng thừa nhận sự tồn tại của tính dục ở trẻ em là một bước phát triển quan trọng.

Freud cho rằng tính dục đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống, hành động và hành vi của con người; ông cho biết ham muốn tình dục tồn tại và có thể được nhận thấy ở trẻ em ngay từ khi mới sinh. Ông giải thích điều này trong lý thuyết về tình dục ở trẻ sơ sinh của mình và nói rằng ham muốn tình dục là động lực thúc đẩy quan trọng nhất trong cuộc sống của người trưởng thành. Freud đã viết về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa các cá nhân đối với sự phát triển tình dục và cảm xúc của một người. Ngay từ khi sinh ra, mối liên hệ của người mẹ với trẻ sơ sinh đã ảnh hưởng đến sự thích thú và gắn bó sau này của trẻ. Freud đã mô tả hai dòng chảy của đời sống tình cảm; một là dòng tình cảm, bao gồm mối quan hệ của chúng ta với những người quan trọng trong cuộc sống; và một dòng khoái cảm, bao gồm các mong muốn của chúng ta để thỏa mãn những nhu cầu tình dục. Trong thời kỳ niên thiếu, một người trẻ thường cố gắng dung hòa hai dòng cảm xúc này.

Alfred Kinsey cũng đã nghiên cứu về tình dục ở trẻ em trong Báo cáo Kinsey của mình. Trẻ em bẩm sinh tò mò về cơ thể và chức năng tình dục của chúng. Ví dụ, chúng tự hỏi em bé đến từ đâu, chúng nhận thấy sự khác biệt giữa nam và nữ, và tò mò về bộ phận sinh dục, điều này thường bị nhầm lẫn với thủ dâm. Trò chơi tính dục ở trẻ em, còn được gọi là chơi bác sĩ, bao gồm quan sát hoặc kiểm tra bộ phận sinh dục. Nhiều trẻ em tham gia một số trò chơi liên quan đến tính dục, thường là với anh chị em hoặc bạn bè.

Khía cạnh tâm lý xã hội

phải|nhỏ|450x450px|Một cuộc tuần hành [[Chủ nghĩa nữ quyền làn sóng thứ hai|Giải phóng Phụ nữ ở Washington, DC, Hoa Kỳ, tháng 8 năm 1970. Tháng Ba từ Quảng trường Farrugut đến Công viên Lafayette.]] phải|nhỏ|239x239px|Một cuộc tuần hành [[Phong trào giải phóng người đồng tính|Giải phóng người đồng tính ở London, Vương quốc Anh, ca. Năm 1972. Biểu ngữ của Mặt trận Giải phóng Người đồng tính hiện ra. Địa điểm được cho là Quảng trường Trafalgar.]] Tính dục của con người có thể được hiểu là một phần của đời sống xã hội loài người, và bị chi phối bởi các quy tắc ứng xử và hiện trạng xã hội. Điều này làm thu hẹp tầm nhìn của các nhóm trong xã hội.

Giáo dục giới tính

Độ tuổi và cách để dạy trẻ em về các vấn đề tính dục luôn là một vấn đề của giáo dục giới tính. Hệ thống trường học ở hầu hết các nước phát triển đều có một số hình thức giáo dục giới tính, nhưng bản chất của các vấn đề được đề cập rất khác nhau. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Úc và phần lớn các nước châu Âu, giáo dục giới tính phù hợp với lứa tuổi thường bắt đầu ở lứa tuổi mẫu giáo, trong khi các quốc gia khác giáo dục giới tính bắt đầu từ lứa tuổi thanh thiếu niên. Giáo dục giới tính bao gồm nhiều chủ đề như các khía cạnh thể chất, tinh thần và xã hội của hành vi tình dục. Vị trí địa lý cũng đóng một vai trò trong quan điểm của xã hội về độ tuổi thích hợp để trẻ em tìm hiểu về tình dục. Theo tạp chí TIME và CNN, 74% thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ báo cáo rằng những kiến thức về tình dục họ nhận được chủ yếu là từ bạn bè và các phương tiện thông tin, chỉ có 10% nhận được những kiến thức này từ cha mẹ hoặc một khóa học giáo dục giới tính.

Những người ủng hộ giáo dục giới tính tiết chế tin rằng việc giảng dạy một chương trình toàn diện sẽ khuyến khích thanh thiếu niên quan hệ tình dục, trong khi những người ủng hộ giáo dục giới tính toàn diện cho rằng nhiều thanh thiếu niên sẽ quan hệ tình dục bất chấp và cần được trang bị kiến thức về cách quan hệ tình dục có trách nhiệm. Theo dữ liệu từ cuộc Điều tra dọc quốc gia về thanh thiếu niên, nhiều thanh thiếu niên có ý định tiết chế nhưng không thành, và khi những thanh thiếu niên này quan hệ tình dục, họ thường không sử dụng các biện pháp tình dục an toàn như biện pháp tránh thai.

Tình dục theo dòng lịch sử

Tính dục là một phần quan trọng, thiết yếu với sự tồn tại của con người trong suốt lịch sử. Dù ở nền văn minh nào, tính dục cũng đều bị chi phối thông qua những chuẩn mực, các đại diện, và hành vi. Trong suốt thế kỷ 12, các hành vi thù địch đối với người đồng tính bắt đầu lan rộng khắp các cơ sở tôn giáo và thế tục. Vào cuối thế kỷ 19, nó được xem như một bệnh lý. Quan niệm này vẫn được cho là cách hiểu khoa học nhất về đồng tính cho đến năm 1973 khi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ loại bỏ đồng tính khỏi danh sách chẩn đoán rối loạn tâm thần của họ. và phát hiện của Evelyn Hooker đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi quan điểm của cộng đồng khoa học rằng đồng tính là bệnh cần phải được điều trị hoặc chữa khỏi.

Tính dục, chủ nghĩa thực dân và chủng tộc

Các thực dân xâm lược từ châu Âu biết tới những khái niệm tính dục mới vượt xa khỏi tiêu chuẩn thông thường của họ lần đầu vào năm 1516, khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Vasco Nunez de Balboa tiếp xúc với những người bản xứ có các tập quán như vậy ở Trung Mỹ. Balboa gặp những người đàn ông trong trang phục phụ nữ, và hậu quả là ông đã để bầy chó của mình lấy mạng 40 người đàn ông như vậy chỉ vì sự khác biệt trong tính dục của họ. Ở Bắc Mỹ và Hoa Kỳ, những người châu Âu cũng sử dụng việc khiếu nại về sự phóng túng trong tính dục để biện minh cho hành vi phân biệt đối xử của họ đối với các nhóm chủng tộc và sắc tộc thiểu số.

Các học giả cũng tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân tới khái niệm tính dục như hiện nay, và đưa ra giả thiết rằng khái niệm này đã bị thay đổi hoàn toàn so với thứ tồn tại trước khi bị tác động bởi nạn phân biệt chủng tộc và chế độ nô lệ.

Trong cuốn sách của mình, Kiến thức về tình dục và quyền lực hoàng gia: Giới, Chủng tộc và Đạo đức ở các nước thuộc địa châu Á (Carnal Knowledge and Imperial Power: Gender, Race, and Morality in Colonial Asia), Laura Stoler đã tiến hành nghiên cứu về cách thực dân Hà Lan kiểm soát quan hệ tình dục cũng như ra các sắc lệnh giới hạn việc quan hệ theo giới nhất định nhằm phân biệt giữa tầng lớp cai trị và bị trị, từ đó áp dụng chế độ chế độ thuộc địa lên người dân Indonesia.

Tại Mỹ, theo thống kê có khoảng 155 bộ lạc bản địa thừa nhận có những người hai tâm hồn trong bộ lạc của họ, tuy nhiên con số thực tế có thể còn nhiều hơn những gì được ghi chép. Những người này đã và vẫn luôn được coi là thành viên của các cộng đồng không nằm trong ranh giới phân giới nam - nữ của phương Tây, mà thiên về phạm trù của "giới thứ ba". Hệ thống phân giới này mâu thuẫn với cả hệ nhị phân về giới lẫn định kiến rằng giới và giới tính phải đồng nhất với nhau. Thay vì tuân theo các vai trò truyền thống của nam giới và phụ nữ, hai tinh thần lấp đầy một vị trí đặc biệt trong cộng đồng của họ.

Ví dụ, những người hai tâm hồn này thường được tôn trọng do có sở hữu trí tuệ và linh lực siêu phàm. Trong lịch sử, những người khai hoang tới từ châu Âu từng coi các mối quan hệ của những người hai tâm hồn là quan hệ đồng giới, và do đó, họ tin rằng đạo đức của người bản địa là hạ đẳng hơn. Cùng với việc đưa người bản xứ vào những khu bảo tồn khép kín, Bộ luật Tội phạm Tôn giáo ra đời đã đặc biệt "đả kích kịch liệt các phong tục tập quán về tình dục và hôn nhân của người bản xứ". Ở Mỹ, những người da màu cũng chịu ảnh hưởng của chế độ thực dân theo nhiều cách khác nhau với những khuôn mẫu điển hình như người vú em và người đàn bà dâm loạn Jazebel đối với phụ nữ da đen; hoa sen, rồng nữ với phụ nữ châu Á; và khuôn mẫu phụ nữ Latin "nóng bỏng". Những khuôn mẫu này đối nghịch với những chuẩn mực bảo thủ về tính dục, tạo ra một sự phân cực mà trong đó, các nhóm trong khuôn mẫu bị miêu tả theo cách thiếu tính "người" và nhiều tính "con" hơn. Một ví dụ về khuôn mẫu mang đầy đủ các tính chất từ phân biệt chủng tộc, phân chia giai cấp tới phân biệt giới tính có thể kể đến là nguyên mẫu về "nữ hoàng phúc lợi". Cathy Cohen miêu tả cách khuôn mẫu "nữ hoàng phúc lợi" tạo nên hình tượng quỷ hóa người phụ nữ da đen đơn thân, do họ đi chệch khỏi những quy ước thông thường về cấu trúc gia đình.

Quyền về sinh sản và tình dục

Quyền về sinh sản và tình dục bao trùm các khái niệm về việc áp dụng nhân quyền cho các vấn đề liên quan tới sinh sản và tính dục. Đây là một khái niệm khá mới mẻ, và còn gây tranh cãi do nó có liên hệ, trực tiếp và gián tiếp, tới các vấn đề như phòng tránh thai, quyền LGBT, nạo phá thai và giáo dục giới tính, quyền tự do khi chọn bạn đời, quyền tự do quyết định có tham gia vào hoạt động tình dục hay không, quyền toàn vẹn cơ thể, quyền lựa chọn có con hay không, và khi nào thì có con. Đây là những vấn đề mang tính toàn cầu, chúng tồn tại ở mọi nền văn hóa ở những mức độ nhất định, tuy vậy, sự hiện diện của chúng là khác nhau, tùy theo các bối cảnh khác nhau.

Trích lời chính phủ Thụy Điển, "quyền về tính dục bao hàm quyền cho phép mỗi người được quyền đưa ra những quyết định liên quan tới thân thể và tính dục của bản thân", đồng thời, "quyền sinh sản bao gồm quyền cho phép cá nhân được quyết định số lượng con cái họ sẽ có và thời điểm chúng ra đời". Những quyền này không hoàn toàn được thừa nhận ở mọi nền văn hóa, khi mà trên thế giới vẫn còn tồn tại phổ biến các hệ tư tưởng như tội danh hóa những hành vi như tình dục dưới sự đồng thuận (bao gồm nhưng không giới hạn các hoạt động tình dục đồng giới hoặc khác giới ngoài hôn nhân), chấp thuận hôn nhân cưỡng bức và tảo hôn, không tội danh hóa các hành vi tình dục không có sự đồng thuận (ví dụ như cưỡng hiếp trong hôn nhân), cắt âm vật, hoặc cản trở khả năng phòng tránh thai.

Thành kiến đối với việc phòng tránh thai

Vào năm 1915, Emma Goldman và Margaret Sanger, người đứng đầu phong trào về kiểm soát sinh sản, đã thực hiện tuyên truyền thông tin liên quan tới việc ngừa thai nhằm phản đối lại các bộ luật đương thời có ý quỷ hóa hành vi này, chẳng hạn như bộ luật Comstock. Một trong những mục đích chính của họ là nhằm khẳng định rằng phong trào kiểm soát sinh sản sẽ góp phần giúp lấy lại quyền tự quyết của phụ nữ về vấn đề sinh nở và tài chính, đặc biệt với những ai không có đủ khả năng nuôi con, hoặc đơn giản hơn, không có ý định có con. Goldman và Sanger nhận thấy sự cần thiết của việc giáo dục người dân trước tình trạng các biện pháp tránh thai nhanh chóng bị rêu rao như một chiến thuật nhằm kiểm soát dân số do vốn là một chính sách có khả năng hạn chế việc sinh đẻ, bất chấp việc sự giới hạn này không ảnh hưởng tới hệ sinh thái, chính trị hay cục diện kinh tế. Sự thành kiến này nhắm vào phụ nữ thuộc những tầng lớp thấp, những người có nhu cầu tiếp cận với các biện pháp tránh thai nhất.

Sự bài trừ đối với kiểm soát sinh sản bắt đầu được nới lỏng vào năm 1936, khi tòa án phán xử vụ Hoa Kỳ và Một lô hàng tuyên bố rằng việc kê đơn thuốc tránh thai không còn là bất hợp pháp theo luật Comstock nếu như điều ấy nhằm cứu mạng người hoặc nhằm đảm bảo sức khỏe người đó. Mặc dù khi ấy vẫn tồn tại những ý kiến trái chiều về việc phụ nữ có nên được tiếp cận với các biện pháp kiểm soát sinh nở hay không, tới năm 1938, tại Mỹ đã có tới 347 phòng khám đảm nhiệm công việc này. Tuy nhiên, việc quảng cáo cho hoạt động này khi ấy vẫn là bất hợp pháp.

Sự phản đối này đã giảm nhanh chóng khi Đệ nhất Phu nhân Eleanor Roosevelt công khai thể hiện sự ủng hộ của bà đối với việc kiểm soát sinh sản xuyên suốt 4 nhiệm kỳ đương nhiệm của chồng bà (1933-1945). Tuy vậy, phải tới năm 1966, chính phủ Liên bang mới chính thức chi ngân sách cho hoạt động kế hoạch hóa gia đình và kiểm soát sinh sản, dưới lệnh của Tổng thống Lyndon B. Johnson. Việc cung cấp ngân sách này kéo dài tới sau năm 1970, theo chương trình Dịch vụ Kế hoạch hóa Gia đình và Đạo luật Nghiên cứu Dân số. Ngày nay, mọi gói bảo hiểm đề xuất bởi các Thương trường Bảo hiểm Y tế (Health Insurance Marketplace) đều bắt buộc phải bao trọn tất cả các biện pháp phòng tránh thai, bao gồm cả quy trình triệt sản, theo quy định của Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền thông qua bởi Tổng thống Barack Obama vào năm 2010.

Sự tuyên truyền tiêu cực và tích cực trong cuộc khủng hoảng AIDS

Năm 1981 đánh dấu các ca bệnh AIDS đầu tiên được các bác sĩ chẩn đoán tại châu Phi. Dịch bệnh này đặc biệt gây ảnh hưởng về tạm thời lẫn lâu dài cho những người đồng tính và song tính nam, đặc biệt là những người da đen và Latinh trong cộng đồng. Chính quyền Reagan đã bị chỉ trích do sự thờ ơ trước đại dịch AIDS, và các đoạn ghi âm còn tiết lộ rằng thư ký báo chí của Ronald Reagan, Larry Speakes, còn nhìn nhận cơn đại dịch như một trò đùa, và thể hiện sự mỉa mai bằng cách gọi đó là "Bệnh dịch đồng tính nam". Cơn khủng hoảng này cũng kéo theo những sự kỳ thị nhất định dưới sự ảnh hưởng của tôn giáo. Ví dụ, Cardinal Krol từng lên tiếng rằng AIDS là "một sự trừng phạt đối với tội ác đồng tính luyến ái", làm rõ ý nghĩa cụ thể đằng sau việc Giáo hoàng nhắc tới "căn nguyên trong mặt đạo đức của AIDS".

Những tiếng nói tích cực xung quanh cuộc khủng hoảng AIDS tập trung vào việc đẩy mạnh tuyên truyền về quan hệ tình dục an toàn, từ đó nâng cao nhận thức rằng dịch bệnh này là có thể ngăn chặn được. Chiến dịch "Safe Sex is Hot Sex" (Tình dục an toàn là tình dục nóng bỏng) nhằm khuyến khích sử dụng bao cao su khi quan hệ là một ví dụ. Các chiến dịch của chính phủ Mỹ, ngược lại, lại có phần xa rời khỏi khuynh hướng ủng bộ quan hệ tình dục an toàn. Vào năm 1987, Quốc hội Hoa Kỳ thậm chí còn từ chối cung cấp ngân sách liên bang cho các chiến dịch về nhận thức mà "[thúc đẩy] hoặc [khuyến khích] các hành vi tình dục đồng giới, bất kể trực tiếp hay gián tiếp". Những người đồng tính nam ở San Francisco và thành phố New York đã soạn thảo Bộ quy tắc ứng xử Denver, một bộ tài liệu đặt nền móng cho việc đấu tranh giành lại quyền lợi, quyền tự quyết, và phẩm giá cho người sống chung với AIDS. Chính sự tương tác này là tiền đề cho phép "văn hóa" đồng tính phương Tây được giới thiệu tới những người đồng tính nam ở những đất nước nơi mà đồng tính luyến ái chưa được coi là một sự định danh quan trọng. Nhờ đó, những người đứng ra thành lập nhóm cũng tự gắn mác bản thân là đồng tính nam nhiều hơn, tạo nền móng cho sự phát triển sâu rộng hơn của nhận thức về đồng tính tại các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. tăng cường hệ miễn dịch, và làm giảm nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt. Sự tiếp xúc về mặt tình dục và trạng thái cực khoái giúp tăng lượng oxytocin, hormone giúp gây dựng niềm tin giữa người với người.

Một nghiên cứu lâu năm trên 3,500 người trong độ tuổi từ 30 tới 101, thực hiện bởi bác sĩ tâm lý học thần kinh lâm sàng David Weeks, tiến sĩ ngành Y học, trưởng khoa Tâm lý học người cao tuổi tại Bệnh viện Hoàng gia Edinburgh ở Scotland, báo cáo rằng ông đã phát hiện "tình dục giúp bạn trông trẻ ra từ bốn tới bảy tuổi", dựa theo đánh giá khách quan về ảnh chụp của các đối tượng. Tuy nhiên, không rõ rằng đây có phải nhân tố duy nhất hay không, và những lợi ích này cũng có thể chỉ chịu ảnh hưởng gián tiếp từ tình dục và trực tiếp từ sự giảm thiểu căng thẳng, cảm giác thỏa mãn, cũng như khả năng ngủ ngon giấc hơn mà tình dục mang lại.

Quan hệ tình dục cũng có thể là một con đường truyền bệnh. Có 19 triệu trường hợp mới mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) hàng năm ở Mỹ, Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 19 triệu ca nhiễm mới mắc các bệnh lây qua đường tình dục (STD), trong khi con số này trên toàn thế giới là hơn 340 triệu ca. Hơn nửa số ca trong đó có bệnh nhân là thanh thiếu niên (từ 15 tới 24 tuổi). Cứ 4 cô gái ở tuổi vị thành niên ở Mỹ thì có ít nhất 1 người mắc một bệnh lây qua đường tình dục. Ở Mỹ, khoảng 30% số người trong độ tuổi từ 15 tới 17 đã từng quan hệ tình dục, nhưng chỉ 80% số người từ 15 tới 19 tuổi báo cáo rằng họ có sử dụng bao cao su cho lần quan hệ đầu tiên của mình. Một nghiên cứu cho thấy, hơn 75% phụ nữ trẻ trong độ tuổi từ 18 tới 25 cảm thấy họ có nguy cơ thấp bị mắc bệnh lây qua đường tình dục.

Tạo dựng mối quan hệ

phải|nhỏ|The Flirtation, [[Eugene de Blaas, 1904.]] Trong vô thức lẫn một cách có chủ ý, con người luôn tìm cách hấp dẫn những người mà họ thấy có thể tạo dựng mối quan hệ sâu sắc. Hành động này có thể nhằm tìm kiếm sự đồng hành, duy trì nòi giống, hoặc nhằm tìm kiếm mối quan hệ thân mật lâu dài. Công việc này cần tới một quá trình tương tác mà ở đó, con người tìm và thu hút nửa kia lý tưởng, và duy trì mối quan hệ đó. Những quá trình này bao gồm việc hấp dẫn một hay nhiều bạn đời và duy trì sự hứng thú về mặt tình dục, và có thể bao gồm:

  • Tán tỉnh, hành động thu hút sự chú ý của người khác về mặt tính dục nhằm thúc đẩy mối quan hệ tình cảm hoặc tình dục.Nó có thể bao gồm ngôn ngữ cơ thể, trò chuyện, bông đùa, hoặc tiếp xúc cơ thể nhẹ. Tán tỉnh là một phương pháp thu hút bạn đời được xã hội chấp nhận. Có rất nhiều cách thức tán tỉnh khác nhau, và hầu hết mọi người thường sẽ có một cách tán tỉnh khiến họ thấy thoải mái nhất. Khi tán tỉnh, con người có thể lịch sự, bông đùa, hay có nhu cầu tiếp xúc cơ thể, v.v. Đôi khi cũng rất khó để có thể nhận biết được một người thực sự có hứng thú hay không. Phong cách tán tỉnh cũng khác nhau qua các nền văn hóa. Các nền văn hóa khác nhau có những chuẩn mực xã giao khác nhau. Một vài ví dụ cho điều này là thời gian giao tiếp bằng mắt, hoặc khoảng cách đứng giữa hai người.
  • Quyến rũ, quá trình một người chủ tâm lôi kéo người khác tham gia vào hoạt động tình dục. Người bạn đang quyến rũ thường sẽ không có những hành động này, trừ phi bị kích thích tình dục. Việc quyến rũ có thể được coi là tích cực lẫn tiêu cực. Do từ "quyến rũ" trong tiếng Anh (seduction) có nghĩa Latin là "làm cho lạc lối", từ ngữ này có thể mang nghĩa tiêu cực.

Hấp dẫn tình dục

Sự hấp dẫn tình dục là sự hấp dẫn trên cơ sở ham muốn tình dục hoặc đặc trưng của sự khơi gợi sự hứng thú. Sự hấp dẫn về mặt tình dục hoặc sự thích thú giới tính là khả năng bị hấp dẫn về mặt tình dục hoặc cảm xúc của một cá nhân đối với người khác, và là một yếu tố trong sự lựa chọn tình dục hoặc lựa chọn bạn đời. Sự thu hút có thể là về thể chất phẩm chất hoặc đặc điểm khác của một người, hoặc những phẩm chất mà họ bộc lộ trong từng hoàn cảnh. Sự thu hút có thể đối với ngoại hình hoặc hành động, giọng nói hay mùi hương của một người, bên cạnh những yếu tố khác. Sự thu hút có thể được tăng lên bởi trang sức, quần áo, nước hóa, độ dài tóc và kiểu tóc của một người, và bất cứ điều gì khác có thể thu hút sự hấp dẫn tình dục của người khác. Nó cũng có thể chịu ảnh hưởng bởi di truyền, tâm lý hoặc các yếu tố văn hóa của một người, hoặc đối với một số người, đó là những phẩm chất vô hình của một người. Sự hấp dẫn tình dục cũng là sự phản hồi phụ thuộc vào sự kết hợp giữa người sở hữu các phẩm chất và tiêu chí của người bị hấp dẫn.

Thêm vào đó, có những vô tính, họ không trải nghiệm sự hấp dẫn tình dục với cả hai giới, mặc dù họ có thể bị thu hút về mặt tình cảm (đồng ái, song ái hoặc dị ái). Sự hấp dẫn giữa cá nhân bao gồm những yếu tố như thể chất và sự đồng điệu về mặt tinh thần, sự thân quen hoặc việc sở hữu những ưu thế của những đặc điểm phổ biến hoặc quen thuộc, giống nhau, sự bù đắp, xu hướng thích người mình thích (reciprocal liking) và sự củng cố.

Khả năng dùng thể chất và những tiêu chí khác của một người để tạo sự hấp dẫn tình dục với người khác là cơ sở để họ sử dụng quảng cáo, video ca nhạc, ấm phẩm khiêu dâm, phim ảnh những phương tiện truyền thông hình ảnh khác, cũng như làm người mẫu, lao động tình dục và các nghề khác.

Vấn đề pháp lý

Trên cầu hóa, các bộ luật quy định về tính dục con người theo một số cách, bao gồm hình sự hóa những hành vi tình dục đặc biệt, cho phép những cá nhân quyền riêng tư và quyền tự chủ để quyết định về tính dục của họ, bảo vệ cá nhân liên quan tới sự bình đẳng và không phân biệt đối xử, công nhận và bảo vệ những quyền cá nhân khác, cũng như các vấn đề về lập pháp liên quan đến hôn nhân và gia đình, và việc xây dựng pháp luật để bảo vệ những cá nhân khỏi bạo lực, quấy rối, và áp bức.

Ở Mỹ, có hai cách tiếp cận cơ bản khác nhau, áp dụng cho các bang khác nhau, liên quan đến cách pháp luật được sử dụng để kiểm soát tình dục một người. "Bức thư đen" tiếp cận đến luật tập trung vào nghiên cứu án lệ, và nỗ lực để cung cấp khuôn khổ rõ ràng về những quy tắc trong đó luật sư và những người khác có thể làm việc.

Quyền riêng tư tình dục

Trong khi vấn đề về sự quyền riêng tư đã trở nên hữu ích cho các tuyên bố về quyền tình dục, một số học giả đã chỉ trích tính hữu dụng của nó, cho rằng góc nhìn này là quá hạn hẹp và hạn chế. Pháp luật thường can thiệp chậm vào một số hình thức nhất định của hành vi cưỡng chế mà có thể hạn chế sự tự kiểm soát tình dục cá nhân (như cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, cưỡng hôn hay thiếu sự tiếp cận với chăm sóc sức khỏe sinh sản). Nhiều trong số những bất công này thường được gây ra một phần hoặc hoàn toàn bởi những cá nhân hơn là cơ quan nhà nước, và như một hệ quả, một cuộc tranh luận đang tiếp diễn về mức độ của trách nhiệm nhà nước trong việc phòng tránh các hành vi có hại và điều tra những hành vi đó khi chúng xảy ra.

Khi lao động tình dục bị hình sự hóa, người bán dâm không có sự hỗ trợ của cơ quan thực thi pháp luật khi họ trở thành nạn nhân của bạo lực. Trong một cuộc khảo sát năm 2003 về những người hành nghề mại dâm trên đường phố ở NYC, 80% cho biết họ từng bị đe dọa hoặc bị bạo lực, và nhiều người nói rằng cảnh sát không giúp được gì. 27% cho biết họ đã từng bị cảnh sát bạo hành. Những đặc điểm nhận dạng khác nhau như da đen, chuyển giới hoặc nghèo có thể khiến một người có nhiều khả năng bị cảnh sát lập hồ sơ hình sự. Ví dụ, ở New York, có luật chống "lảng vảng nhằm thu hút mại dâm", được đặt biệt danh là luật "walking while trans" vì phụ nữ chuyển giới thường bị cho là hành nghề mại dâm và bị bắt giữ chỉ vì bước ra nơi công cộng.

Phẩm hạnh tôn giáo về tình dục

Trong một số tôn giáo, hành vi tình dục được coi chủ yếu về tâm linh. Ở những người khác, nó được coi là chủ yếu về thể chất. Một số người cho rằng hành vi tình dục chỉ mang tính tâm linh trong một số loại mối quan hệ nhất định, khi được sử dụng cho các mục đích cụ thể hoặc khi được kết hợp vào nghi lễ tôn giáo. Trong một số tôn giáo không có sự phân biệt giữa vật chất và tinh thần, trong khi một số tôn giáo xem tình dục của con người như một cách để lấp đầy khoảng trống tồn tại giữa tinh thần và thể chất.

Nhiều người tôn giáo bảo thủ, đặc biệt là những người theo tôn giáo Do Thái giáo và Cơ đốc giáo nói riêng, Do Thái giáo và Cơ đốc giáo nói riêng, có xu hướng xem tính dục dưới góc độ hành vi (tức là đồng tính luyến ái hay dị tính luyến ái là việc mà một người thực hiện) và một số tính dục nhất định như song tính luyến ái có xu hướng bị bỏ qua như một hệ quả của điều này Những người bảo thủ này có xu hướng thúc đẩy chủ nghĩa độc thân cho những người đồng tính, và cũng có thể có xu hướng tin rằng tình dục có thể được thay đổi thông qua liệu pháp đồng tính hoặc cầu nguyện để trở thành một người đã-từng-đồng-tính. Họ cũng có thể coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh tâm thần, một thứ đáng bị hình sự hóa, sự ghê tởm vô đạo đức, gây ra bởi việc nuôi dạy con cái không hiệu quả và coi hôn nhân đồng tính là một mối đe dọa cho xã hội.

Mặt khác, hầu hết những người theo chủ nghĩa tự do tôn giáo định nghĩa các nhãn liên quan đến tình dục dưới góc độ hấp dẫn tình dục và tự nhận diện bản thân. nhưng nó phải được sử dụng phù hợp với quy luật tự nhiên. Vì lý do này, tất cả các hành vi tình dục phải diễn ra trong bối cảnh hôn nhân giữa đàn ông và phụ nữ, và không được ly hôn vì có khả năng thụ thai. Hầu hết các hình thức quan hệ tình dục không có khả năng thụ thai về bản chất đều bị coi là rối loạn và tội lỗi, chẳng hạn như sử dụng các biện pháp tránh thai, thủ dâm và hành vi đồng tính luyến ái.

Anh giáo

Giáo hội Anh giáo rằng tình dục của con người là một món quà từ Đức Chúa Trời yêu thương, được thiết kế để giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân một vợ một chồng chung thủy trọn đời. Nó cũng xem sự độc thân và chủ nghĩa độc thân tận tụy giống như Đấng Christ. Nó nói rằng những người có sự hấp dẫn đồng giới được Đức Chúa Trời yêu thương và được hoan nghênh như là chi thể trọn vẹn của Thân thể Đấng Christ, trong khi ban lãnh đạo Giáo hội có nhiều quan điểm khác nhau về sự sắp đặt và biểu hiện đồng tình. Một số biểu hiện của tình dục bị coi là tội lỗi bao gồm "lăng nhăng, mại dâm, loạn luân, khiêu dâm, ấu dâm, hành vi tình dục lạm dụng và bạo dâm (tất cả đều có thể là dị tính và đồng tính luyến ái), ngoại tình, bạo lực với vợ và cắt bộ phận sinh dục của phụ nữ". Giáo hội lo ngại về những áp lực buộc giới trẻ tham gia vào hoạt động tình dục và khuyến khích sự tiết chế.

Tin lành

Về vấn đề tình dục, một số nhà thờ Tin lành khuyến khích lời thề nguyện đồng trinh giữa các Cơ đốc nhân Tin lành trẻ tuổi, những người được mời cam kết trong một buổi lễ công khai tiết chế tình dục cho đến khi kết hôn theo đạo Cơ đốc. Lời thề này thường được tượng trưng bằng một chiếc nhẫn thanh khiết.

Trong các giáo hội Tin Lành, thanh niên và các cặp đôi chưa kết hôn được khuyến khích kết hôn sớm để được có cuộc sống tình dục theo ý muốn của Đức Chúa Trời.

Mặc dù một số giáo hội tỏ ra thận trọng về chủ đề này, nhưng các giáo hội Tin Lành khác ở Hoa Kỳ và Thụy Sĩ nói về sự thỏa mãn tình dục như một món quà từ Chúa và là một thành phần của hôn nhân Cơ đốc hòa hợp, trong các thông điệp trong các buổi thờ phượng hoặc hội nghị. Nhiều sách và trang web Tin Lành chuyên về chủ đề này.

Các quan niệm về đồng tính luyến ái trong các Giáo hội Tin lành rất đa dạng. Họ từ tự do đến ôn hòa đến bảo thủ.

Đạo hồi

Trong Hồi giáo, ham muốn tình dục được coi là một sự thôi thúc tự nhiên không nên bị kìm hãm, mặc dù khái niệm tình dục tự do không được chấp nhận; những ham muốn này nên được thực hiện một cách có trách nhiệm. Hôn nhân được coi là một hành động tốt; nó không cản trở  con đường tâm linh. Thuật ngữ được sử dụng cho hôn nhân trong Kinh Qur'an là nikah, nghĩa đen có nghĩa là quan hệ tình dục. Mặc dù tình dục Hồi giáo bị hạn chế thông qua luật tình dục Hồi giáo, nó nhấn mạnh đến khoái cảm tình dục trong hôn nhân. Người đàn ông có thể có nhiều hơn một người vợ, nhưng anh ta phải chăm sóc những người vợ đó về thể chất, tinh thần, tình cảm, tài chính và linh hồn. Người Hồi giáo tin rằng quan hệ tình dục là một hành vi tôn thờ đáp ứng các nhu cầu về tình cảm và thể chất, và rằng sinh ra con cái là một cách mà con người có thể đóng góp vào sự sáng tạo của Chúa, và Hồi giáo không tán thành độc thân khi một cá nhân đã kết hôn.

Tuy nhiên, đồng tính bị nghiêm cấm trong Hồi giáo, và một số luật sư Hồi giáo đã đề nghị rằng những người đồng tính nên bị xử tử. Mặt khác, một số lập luận rằng Hồi giáo có một cách tiếp cận cởi mở và vui tươi đối với tình dục miễn là trong hôn nhân, không có dâm ô, gian dâm và ngoại tình.

Ấn Độ giáo

Ấn Độ giáo nhấn mạnh rằng tình dục chỉ thích hợp giữa chồng và vợ, trong đó việc thỏa mãn những ham muốn tình dục thông qua khoái cảm tình dục là nghĩa vụ quan trọng của hôn nhân. Bất kỳ quan hệ tình dục nào trước hôn nhân đều được coi là cản trở sự phát triển trí tuệ, đặc biệt là trong độ tuổi từ sơ sinh đến 25 tuổi, được cho là brahmacharya và điều này nên tránh. Kama (thú vui nhục dục) là một trong bốn mục tiêu của cuộc sống ((dharma) pháp, (artha) sự giàu có, kama (thú nhục dục) và moksha (sự giải thoát)). Kama Hindu đề cập một phần đến quan hệ tình dục; nó không chỉ là một tác phẩm tình dục hoặc tôn giáo.

Đạo Sikh

Đạo Sikh coi trinh tiết là quan trọng, vì người Sikh tin rằng tia sáng thần thánh của Waheguru hiện diện bên trong cơ thể của mỗi cá nhân, do đó, điều quan trọng là người ta phải giữ mình sạch sẽ và thanh khiết. Hoạt động tình dục chỉ giới hạn ở các cặp vợ chồng đã kết hôn và quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bị cấm. Hôn nhân được coi là một cam kết với Waheguru và nên được xem như một phần của tình bạn thiêng liêng, thay vì chỉ là quan hệ tình dục, và chế độ một vợ một chồng được nhấn mạnh sâu sắc trong đạo Sikh. Bất kỳ cách sống nào khác đều không được khuyến khích, bao gồm độc thân và đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, so với các tôn giáo khác, vấn đề tình dục trong đạo Sikh không được coi là một trong những điều tối quan trọng.

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người **Tính dục ở loài người** là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc
Đề cương sau đây cung cấp một cái nhìn tổng quan cũng như hướng dẫn chủ đề về tình dục ở người: **Tình dục ở loài người** là khả năng có những trải nghiệm và
Hai con sư tử đang giao phối **Hành vi tình dục ở động vật** có nhiều dạng, ngay cả trong cùng một loài. Các nhà nghiên cứu quan sát thấy quan hệ một-một, quan hệ
NỘI DUNG CHÍNH Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được chính mình nếu chúng ta không hiểu bản tính người đã tiến hóa ra sao, và không thể hiểu nó tiến hóa ra sao
**Cưỡng bức tình dục giữa các loài động vật** là việc sử dụng bạo lực, đe dọa, quấy rối và các chiến thuật khác để giúp chúng giao cấu một cách cưỡng ép. Hành vi
Xu hướng tính dục là một sự hấp dẫn lâu dài về tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người cùng giới hoặc giới tính khác, hoặc với cả hai giới
**Tình dục học** là một môn học về tình dục đề cập đến toàn bộ những vấn đề liên quan đến tình dục của con người. Tình dục học (human sexuality studies) là một môn
Tại Sao Tình Dục Lại Thú Vị Mọi người đều nghĩ về tình dục. Tuy nhiên, chúng ta ít khi để ý tình dục ở con người khác với thói quen sinh sản của các
Hai con sư tử đang giao cấu ở [[Maasai Mara, Kenya]] phải|nhỏ| "Sự giao hợp giữa nam và nữ" (tranh [[Leonardo da Vinci vẽ khoảng 1492), mô tả những gì xảy ra bên trong cơ
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Tính dục nữ của con người** bao gồm một loạt các hành vi và quá trình, trong đó có: xu hướng tính dục và hành vi tình dục của nữ, các khía cạnh sinh lý,
nhỏ|_Sự tán tỉnh_, tranh của [[Eugene de Blaas.]] **Hấp dẫn tình dục** là sự hấp dẫn dựa trên thèm muốn tình dục hoặc khả năng khơi dậy những ham muốn đó. Sức hấp dẫn tình
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**Danh sách các tư thế quan hệ tình dục** này mô tả các tư thế quan hệ tình dục và các hành vi tình dục khác của con người. Các hành vi tình dục thường
**Xu hướng tính dục** là một loại hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) một cách lâu dài đối với những người thuộc giới tính hoặc giới khác, thuộc cùng
**Công khai tính dục** (_coming out of the closet_, thường được nói ngắn gọn là **coming out**), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng
nhỏ|phải|Cảnh nàng Bathsheba đang tắm, trong Kinh Thánh thì đây là câu chuyện chỉ về mối liên hệ giữa khỏa thân và tình dục **Khỏa thân và tình dục** (_Nudity and sexuality_) chỉ về mối
Giả thuyết về tính dục có liên quan đến nội tiết tố cho rằng, cũng như sự tiếp xúc với một số nội tiết tố đóng vai trò trong việc phát triển giới tính của
**Bệnh lây truyền qua đường tình dục** còn gọi là **bệnh hoa liễu**, hay **nhiễm trùng lây qua đường tình dục** là bệnh có xác suất truyền từ người sang người thông qua các hành
Họa phẩm của Jean-Léon Gérôme về nữ [[nô lệ da trắng thời La Mã cổ đại đang bị bày bán ở chợ nô lệ]] **Nô lệ tình dục** hay nói rộng ra là **chế độ
nhỏ|phải|Một con búp bê tình dục nhỏ|Một thế hệ búp bê tình dục cao cấp hoặc ma-nơ-canh có thể tạo dáng mới **Búp bê tình dục** hay còn gọi là **búp bê tình yêu** (còn
nhỏ|400x400px| Tác phẩm điêu khắc khiêu dâm tại [[Nhóm di tích Khajuraho|khu di tích đền Khajuraho, Ấn Độ. ]] Quan điểm của các tôn giáo và tín đồ tôn giáo rất đa dạng, từ việc
nhỏ|phải|Một cặp [[hươu nai đang giao phối trong mùa động dục]] nhỏ|phải|[[Cá sấu là loài thể hiện tình cảm rất nhẹ nhàng]] **Giao phối** hay còn gọi là **phối giống** hay là **giao cấu** ở
**Phản xạ chịu đực** hay còn gọi là **phản xạ chịu nhảy** (_Lordosis behavior_) là một tư thế cơ thể mang tính phản xạ tự nhiên, thể hiện trạng thái sẵn sàng giao phối (tiếp
thumb|Tư thế quan hệ tình dục thông thường nhỏ|phải|_Les missionnaires_, tác giả [[Gustav Klimt]] **Tư thế thông thường**, còn gọi là "**kiểu truyền giáo**" (tiếng Anh: **missionary position**) là tư thế làm tình mà người
Tình dục tập thể minh họa bởi [[Édouard-Henri Avril.]] **Tình dục tập thể** là hành vi tình dục có hơn hai người tham gia cùng lúc. Bài này chủ yếu nói về tình dục tập
Tác dụng của đông trùng hạ thảo: Là sản phẩm có nhiều các vitamin khoáng chất bồi bổ cơ thể tăng cường hệ miễn dịch, tốt tim mạch cho người sau mổ, người mới ốm
**Đa dạng giới và tính dục** (**Gender and sexual diversity - GSD**), hay đơn giản hơn là **đa dạng tính dục**, chỉ tất cả những sự đa dạng liên quan tới các đặc điểm giới
nhỏ|phải|Hai con hươu đang phối giống một cách tự nhiên **Phối tinh** (_Insemination_) hay còn gọi là **cấy tinh**, **gieo tinh**, **thụ tinh** hay **phối giống** hoặc **cấy giống** là việc cố tình đưa tinh
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
nhỏ|150x150px| Hình 1: Cặp nhiễm sắc thể giới tính ở nam giới gồm hai chiếc khác nhau: X (dài) và Y (ngắn hơn). **Giới tính không đồng nhất** hay **giới dị giao tử**. (tiếng Anh:
phải|nhỏ|Quả anh đào được coi là một món ăn gợi cảm và dục tình trong nhiều nền văn hóa. **Thực phẩm và tình dục** đã có mối quan hệ với nhau theo nhiều cách trong
nhỏ|350x350px|Một trong những minh họa cho tác phẩm De Figuris Veneris của [[Édouard-Henri Avril. Miêu tả một người đàn ông thủ dâm trong khi mơ tưởng về tình dục.]] **Mơ tưởng tình dục**, hay **tưởng
Hoàng Hậu Đỏ - Tình Dục Và Sự Tiến Hóa Của Bản Tính Người Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được chính mình nếu chúng ta không hiểu bản tính người đã tiến hóa
thumb|Lược đồ họ [[Hominidae: các phân họ Ponginae và Homininae, và các nhánh: _Pongo_ (đười ươi), _Gorilla_ (khỉ đột), _Pan_ (tinh tinh) và _Homo_]] **Tiến hóa của loài người** là quá trình tiến hóa dẫn
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được chính mình nếu chúng ta không hiểu bản tính người đã tiến hóa ra sao, và không thể hiểu nó tiến hóa ra sao nếu không hiểu
**Tội ác chống lại loài người** là một số hành vi được thực hiện có chủ đích như một phần của chính sách rộng rãi hoặc có hệ thống nhằm chống lại con người, trong
**Song tính luyến ái** (tiếng Anh: **Bisexuality**) chỉ sự hấp dẫn hoặc hành vi tình cảm hoặc tình dục với giới nam và nữ hoặc nhiều hơn một giới. "Song tính" cũng có thể được
nhỏ|phải|Bò rừng Bizon từng được ghi nhận là có quan hệ đồng tính nhỏ|phải|[[Cừu nhà là loài động vật duy nhất (trừ loài người) có những cá thể đực chỉ giao phối đồng tính trong
nhỏ|phải|Khỉ sư tử Tamarin là các loài khỉ Tân thế giới được biết đến với hệ thống đa phối đực Hiện tượng **đa phối đực** (_polyandry_) trong tự nhiên là một lớp hệ thống giao
nhỏ|phải|Một con tinh tinh vị thành niên đang thủ dâm **Hành vi tình dục không sinh sản ở động vật** (_Non-reproductive sexual behavior_) là các hành vi tình dục ở động vật mà động vật
nhỏ|phải|Tranh vẽ tả cảnh quan hệ tình dục theo nhóm **Nhiều bạn tình** (_Multiple sex partners_/_MSP_) hay còn gọi là **đa bạn tình** là thuật ngữ dùng để chỉ việc một người từng có quan
**Dùng dụng cụ ở loài vật** (_Tool use by animals_) là một hiện tượng được ghi nhận ở các loài động vật, trong đó chúng được ghi nhận là đã sử dụng bất kỳ loại
nhỏ|phải|Chim ruồi Anna đang phô diễn bề ngoài nhỏ|phải|Một con nhện đực đang biểu diễn nghi thức tán tỉnh **Màn tán tỉnh** hay **vũ điệu tán tỉnh** là một tập hợp các hành vi biểu
**Chung thủy ở động vật** hay **đơn phối ngẫu ở động vật** (_Monogamy in animals_) hay còn gọi là **kết đôi bền chặt** ở các động vật đề cập đến lịch sử tự nhiên của
**_Thế giới khi loài người biến mất_** (tiếng Anh: _The World Without Us_) là một tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu của nhà báo người Mỹ Alan Weisman. Quyển sách được xuất bản
thumb|Một con ếch nằm trên bọc trứng đã thụ tinh thumb|right|Trong giai đoạn đầu tiên của sinh sản hữu tính là "giảm phân", số lượng nhiễm sắc thể bị giảm từ lưỡng bội (2n) thành
**Tiếng gọi bạn tình** hay **tiếng gọi động dục** hay **tiếng gọi kết đôi** (_Mating call_) là tín hiệu thính giác được sử dụng bởi các loài động vật trong mùa sinh sản để thu
thumb|Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).|thế= nhỏ|Biểu tượng của phi nhị giới. **Giới tính xã hội**
**Người**, **con người**, **loài người** hay **nhân loại** (danh pháp khoa học: **_Homo sapiens_** hay **_Homo sapiens sapiens_**, nghĩa đen: **người tinh khôn**) là loài linh trưởng đông đảo và lan rộng nhất. Người có