✨Nội tiết tố tiền sản và xu hướng tính dục
Giả thuyết về tính dục có liên quan đến nội tiết tố cho rằng, cũng như sự tiếp xúc với một số nội tiết tố đóng vai trò trong việc phát triển giới tính của thai nhi, sự tiếp xúc đó cũng có thể ảnh hưởng đến xu hướng tính dục xuất hiện sau này khi đã trưởng thành. Nội tiết tố tiền sản có thể được xem là yếu tố quyết định đối với xu hướng tính dục của người trưởng thành, hoặc là một yếu tố bên cạnh di truyền, yếu tố sinh học và/hoặc yếu tố môi trường và xã hội.
Hành vi thuộc giới tính
Giả thuyết về tính dục và bản dạng giới có liên quan đến nội tiết tố cho rằng, cũng như sự tiếp xúc với một số nội tiết tố nhất định có vai trò trong việc phát triển giới tính ở thai nhi, sự tiếp xúc đó cũng ảnh hưởng đến xu hướng tính dục và bản dạng giới xuất hiện khi đã trưởng thành. Những sự khác biệt cấu trúc não gây ra bởi sự tương tác giữa chất dẫn truyền thần kinh và yếu tố di truyền trên nền các tế bào não đang phát triển được cho là cơ sở của sự khác biệt giữa 2 giới tính trong vô số hành vi, bao gồm cả xu hướng tính dục. Yếu tố tiền sản ảnh hưởng hoặc can thiệp vào sự tương tác của các nội tiết tố này trên nền não bộ đang phát triển có thể ảnh hưởng đến hành vi thuộc giới tính ở trẻ em.
Nội tiết tố trong thai kì có thể được xem như tác động chính đối với xu hướng tính dục sau khi trưởng thành hoặc một đồng nhân tố tương tác với yếu tố di truyền và/hoặc điều kiện môi trường hoặc xã hội. Tuy nhiên, Garcia-Falgueras và Dick Swaab không đồng ý rằng rằng điều kiện xã hội tác động đến xu hướng tính dục ở mức độ cao. Ở trẻ nhỏ và một số giống khỉ, các hành vi khác biệt về giới tính trong việc lựa chọn đồ chơi khác biệt giữa nam giới và nữ giới, trong đó nữ giới lựa chọn búp bê còn nam giới lựa chọn bóng và xe; những sự lựa chọn này có thể được nhận thấy từ lúc còn rất sớm – từ lúc 3 đến 8 tháng ở người. Kết quả của hai quá trình này xảy ra riêng biệt, mức độ nam tính hóa bộ phận sinh dục không nhất thiết liên quan đến sự nam tính hóa của não.
Được nghiên cứu rộng rãi nhất về tác động tổ chức của hormone là tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH). CAH là một bệnh di truyền dẫn đến việc tiếp xúc với lượng nội tiết tố androgen cao bắt đầu sớm trong thời kỳ mang thai. Các bé gái mắc CAH được sinh ra với cơ quan sinh dục nam tính thường được phẫu thuật chỉnh sửa sớm nhất có thể.
Căng thẳng ở thai phụ trong giai đoạn tiền sinh sản
Vào năm 2006, kết quả từ các nghiên cứu ở người đã tìm thấy bằng chứng mâu thuẫn về sự ảnh hưởng của việc tiếp xúc với hormone ở giai đoạn tiền sinh sản và hệ quả của tâm lý tình dục; cũng vào năm 2006, Gooren đã ghi chú rằng các nghiên cứu ở động vật có vú bậc thấp là những thước đo không hợp lệ về sự khác biệt giới tính ở con người, vì hormone sinh dục đóng vai trò "bật-tắt" ở hành vi thuộc giới tính nhiều hơn so với ở động vật linh trưởng.
Một vài nghiên cứu đề ra rằng căng thẳng ở giai đoạn tiền sinh sản làm tỉ lệ hình thành đồng tính luyến ái hoặc song tính luyến ái tăng lên đáng kể, tuy nhiên nhiều bằng chứng khác cho rằng trong các tam cá nguyệt quan trọng nhất. trong số những bằng chứng khác ủng hộ lý thuyết này. Hơn nữa, trong khi tỷ lệ phần trăm khả năng hình thành đồng tính luyến ái được ước tính là tăng 15-48% trên mỗi anh trai, tỷ lệ này thực sự chỉ chiếm một vài phần trăm dân số; do đó, giả thuyết này không thể được áp dụng phổ biến cho phần lớn người đồng tính nam. nhưng không phải tất cả, nghiên cứu đã có thể tái tạo hiệu ứng thứ tự sinh anh em trai. Một số không tìm thấy bất kỳ sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về cả sự cấu thành anh chị em lẫn tỷ lệ anh trai ở người đồng tính nam và người dị tính nam, bao gồm cả những nghiên cứu lớn đại diện mang tầm quốc gia ở Mỹ và Đan Mạch. Tuy nhiên, Blanchard phân tích lại nghiên cứu ở Đan Mạch năm 2006 của Frisch và nhận thấy hiệu ứng thứ tự sinh trên thực tế vẫn tồn tại.
Cùng với thứ tự sinh anh em trai, sự thuận tay (việc cá nhân thuận tay nào) cung cấp thêm bằng chứng về các tác động tiền sinh sản tới xu hướng tính dục, vì sự thuận tay được nhiều người coi là dấu hiệu phát triển thần kinh sơ khai. Các mối liên hệ khác đến sự thuận tay (ví dụ, lệch bên não, cấu hình nội tiết tố tiền sinh sản, năng lực định hướng không gian) đều có liên quan đến xu hướng tính dục, theo kinh nghiệm và/hoặc theo lý thuyết.
Các gen liên quan đến thứ tự sinh anh em trai
Một gen của hệ Rh đã được thảo luận là một nhân tố có thể ảnh hưởng đến trật tự sinh anh em trai, vì nó có liên quan đến cả sự thuận tay và hoạt động của hệ thống miễn dịch. Các biến thể gen trong hệ thống Rh có liên quan đến phản ứng của người mẹ với bệnh được gọi là bệnh tan máu ở trẻ sơ sinh. Rh là một yếu tố trong máu, và trong trường hợp người mẹ không có yếu tố này (Rh-) trong khi mang thai nhi Rh+, phản ứng miễn dịch có thể phát triển với những tác động có hại. Giả thuyết gen Rh là một ứng cử viên sáng giá vì nó không chỉ liên quan đến phản ứng miễn dịch của người mẹ mà còn liên quan đến sự thuận tay.
Đồng tính nam nhiều tính nam
Có bằng chứng cho thấy mối tương quan giữa xu hướng tính dục và các đặc điểm được xác định ở giai đoạn nằm trong tử cung. Nhân trên chéo của nam giới cũng được biết là lớn hơn của nữ giới. Một nghiên cứu về vùng dưới đồi của Swaab và Hofmann (1900;2007) thấy rằng khối lượng nhân trên chéo (SCN) ở người đồng tính nam nhiều hơn gấp 1.7 lần so với nhóm đối tượng nam tham khảo, và chứa gấp 2.1 lần số tế bào. Trong quá trình phát triển, khối lượng SCN và số lượng tế bào tăng đến cực đại ở xấp xỉ 13 đến 16 tháng sau khi được sinh ra; ở độ tuổi này, SCN chứa số lượng tế bào bằng với lượng được tìm thấy ở người đồng tính nam trưởng thành, tuy nhiên ở nhóm người dị tính nam trưởng thành được tham khảo, số lượng tế bào ở người trưởng thành giảm còn 35% lượng cực đại. và dương vật lớn hơn, tính trên trung bình, so với người dị tính nam.
Đồng tính nam thiếu tính nam
Trong một nghiên cứu năm 1991, Simon LeVay đã chứng minh rằng một cụm tế bào thần kinh nhỏ của vùng dưới đồi trước - phần được cho là có khả năng kiểm soát hành vi tình dục và liên kết với các hormone tiền sinh sản còn được gọi là nhân kẽ của vùng trước ở nam giới dị tính có kích thước trung bình lớn hơn gấp đôi so với nam giới đồng tính. Do vùng này ở nam dị tính cũng có kích thước gần gấp đôi so với nữ dị tính, điều đó mang hàm ý rằng sự phân hóa giới tính của vùng dưới đồi ở người đồng tính đi theo hướng giống với nữ giới. Niềm tin này đi theo "thuyết đảo ngược" sơ khai của những nhà nghiên cứu về tính dục – những người cho rằng đồng tính là kết quả của những sự bất thường về mặt sinh học, gây ra sự đảo ngược trong hấp dẫn tình dục và tính cách. Tuy nhiên, độ đáng tin cậy của phương pháp này vẫn còn gây nhiều tranh cãi dưới vai trò là một thước đo để dự đoán lượng androgen trong thai kỳ, bởi những yếu tố khác trong thời kỳ đó có thể đóng vai trò nhất định trong quá trình lớn lên của xương trong thời kỳ phát triển của thai nhi. Một lời giải thích khác cho hiện tượng này là việc trẻ em gái có tình trạng này được sinh ra với cơ quan sinh dục ngoài mang tính nam, khiến cho cha mẹ nuôi dạy các em theo cách nam tính, từ đó ảnh hướng tới xu hướng tính dục của các em khi trưởng thành. Tuy nhiên, mức độ nam tính ở cơ quan sinh dục của các em không hề có tỷ lệ với xu hướng tính dục, cho thấy rằng hormones trong thai kỳ có sức ảnh hưởng lớn hơn cha mẹ.
Cùng với congenital adrenal hyperplasia, các nghiên cứu về DES đã không cung cấp nhiều sự hỗ trợ cho giải thuyết về hormones tiền sản và xu hướng tính dục; tuy nhiên, chúng cũng đã cung cấp được một khuôn khổ cho những trường hợp có thể có xu hướng tính dục là đồng tính cho một số lượng nhỏ phụ nữ. Nhiều trẻ em với GID phân biệt xu hướng tính dục là đồng tính trong thời kỳ thanh thiếu niên, nhưng không phải tất cả chúng; người lớn mắc chứng "khởi phát sớm" "early onset", hoặc tiền sử thời thơ ấu có hành vi xuyên giới/ chuyển giới: cross-gender), thường có xu hướng tính dục đồng tính. Những người trưởng thành mắc chứng "khởi phát muộn" "late onset", hoặc những người không có tiền sử thời thơ ấu về hành vi nói trên, có nhiều khả năng có xu hướng không đồng tính luyến ái. Gooren phát hiện ra rằng tác động tổ chức của nội tiết tố androgen tiền sinh sản phổ biến hơn trong hành vi vai trò giới hơn là bản dạng giới và có những phát hiện sơ bộ các bằng chứng cho thấy bản dạng giới nam thường xuyên xảy ra hơn ở những nam hoá trước sinh điển hình ở nam giới. Các nghiên cứu về ảnh hưởng tới hệ thần kinh của các chất này và những tác động chúng có thể có lên xu hướng tính dục khi mà một bào thai tiếp xúc với chúng vẫn còn đang trong thời kỳ đầu: "Chúng tôi hầu như chỉ biết về mối quan hệ giữa tiếp xúc với EDC và các cơ chế hành vi thần kinh học thông qua việc nghiên cứu kết quả trong một hệ câu hỏi nhất định." Trong khi các nghiên cứu đã chỉ ra rằng xenoestrogen và xenoandrogen có thể thay đổi sự phân biệt tính dục trong não bộ ở một số loài được dùng trong thí nghiệm trên động vật, từ các số liệu cho tới nay, chúng "đang dẫn dắt người đọc sai hướng… khiến họ kì vọng rằng EDC có thể gây ra nhiều ảnh hưởng, như các hành vi dị hình tính dục, như những bản sao của chúng được tạo ra bởi hormone. Những chất đó không phải là hormone. Chúng không nên được kì vọng sẽ hoạt động y như hormone."