✨Hấp dẫn tình dục

Hấp dẫn tình dục

nhỏ|Sự tán tỉnh, tranh của [[Eugene de Blaas.]] Hấp dẫn tình dục là sự hấp dẫn dựa trên thèm muốn tình dục hoặc khả năng khơi dậy những ham muốn đó. Sức hấp dẫn tình dục hay sự thu hút tình dục là khả năng thu hút ý muốn tình dục hoặc gợi dục từ người khác, và là một yếu tố trong chọn lọc tình dục hay lựa chọn bạn tình. Cảm giác hấp dẫn có thể đối với hình thể hoặc những phẩm chất, đặc điểm khác của một người, hoặc những phẩm chất đó trong bối cảnh mà chúng xuất hiện. Sự hấp dẫn có thể bởi ngoại hình hoặc cử động, giọng nói hoặc mùi hương, bên cạnh những yếu tố khác. Sức hấp dẫn có thể được tăng thêm nhờ trang sức, phục trang, nước hoa hay phong cách. Nó có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cá nhân thuộc về gen, tâm lý, hay văn hóa, hoặc có thể đối với những phẩm chất khác trừu tượng hơn. Hấp dẫn tình dục cũng là một phản ứng dựa vào sự kết hợp giữa người sở hữu các đặc điểm và các tiêu chuẩn đánh giá của người bị hấp dẫn.

Mặc dù đã có những nỗ lực trong việc tạo ra các tiêu chuẩn đánh giá khách quan về sức hấp dẫn tình dục và đo lường nó như một trong nhiều vốn cá nhân về hình thể (xem vốn tình dục), hấp dẫn tình dục phần lớn là một thước đo chủ quan dựa trên ý thích, nhận thức, và xu hướng tính dục. Ví dụ, một người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ thường sẽ thấy một người có cùng giới tính thu hút hơn một người thuộc giới tính còn lại. Một người song tính sẽ thấy bị thu hút bởi cả hai giới tính. Vô tính luyến ái nói đến những người không có trải nghiệm hấp dẫn tình dục đối với cả hai giới tính, dù họ có thể có hấp dẫn tình cảm (đồng ái, song ái, hoặc dị ái) hoặc nhu cầu tình dục không định hướng. Hấp dẫn giữa các cá nhân bao gồm những yếu tố như sự tương đồng về ngoại hình và tâm lý, sự thân thuộc hay có ưu thế sở hữu những đặc điểm thường thấy hoặc quen thuộc, tính tương đồng, tính bù trừ, sự cảm mến qua lại, và sự củng cố.

Khả năng hình thành ý muốn tình dục của cơ thể và những đặc điểm khác là cơ sở cho việc sử dụng chúng trong quảng cáo, phim, và các phương tiện truyền thông trực quan, cũng như trong ngành người mẫu và các ngành nghề khác.

Về khía cạnh tiến hóa, giả thuyết thay đổi do rụng trứng (ovulatory shift hypothesis) thừa nhận rằng người mang giới tính nữ có những hành vi và ham muốn tình dục khác biệt tại nhiều thời điểm trong chu kỳ kinh nguyệt như một biện pháp để đảm bảo hấp dẫn được bạn tình có phẩm chất tốt với mục đích giao cấu trong khoảng thời gian dễ thụ thai nhất. Các nồng độ hormone trong suốt chu kỳ kinh nguyệt tác động đến những hành vi dễ nhận thấy của phụ nữ, ảnh hưởng đến cách họ thể hiện bản thân với người khác trong các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt, nhằm thu hút những đối tác với phẩm chất tốt khi tới gần thời điểm rụng trứng.

Những yếu tố xã hội và sinh học

Tính dục con người có rất nhiều khía cạnh. Trong sinh học, tính dục mô tả cơ chế sinh sản và ham muốn sinh học cơ bản tồn tại ở mọi loài sinh sản hữu tính và có thể bao gồm mọi hình thức quan hệ tình dục và tiếp xúc tình dục. Tính dục cũng có những khía cạnh về tình cảm và hình thể. Những khía cạnh này liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân và có thể được bày tỏ qua các cảm xúc và tình cảm sâu sắc. Về mặt xã hội học, nó có thể bao hàm những khía cạnh về văn hóa, chính trị, và pháp luật; về mặt triết học, nó có thể mở rộng đến các khía cạnh về luân lý, đạo đức, thần học, tâm linh, và tôn giáo.

Những yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của các khía cạnh tính dục; điều này thay đổi theo thời gian cùng với những yếu tố cá nhân. Những yếu tố ảnh hưởng có thể được xác định một cách cụ thể hơn trong các nền văn hoá nhỏ, các trường tình dục, hoặc chỉ đơn giản bởi những khuynh hướng cá nhân. Những khuynh hướng này là kết quả của nhiều yếu tố phức tạp về gen, tâm lý, và văn hóa.

Ngoại hình có tác động quan trọng đến sức hấp dẫn tình dục. Nó bao gồm những tác động lên các giác quan, đặc biệt là trong thời gian đầu của mối quan hệ:

  • Nhận thức về thị giác (tính đối xứng của khuôn mặt, hấp dẫn hình thể, sức khỏe, và cách hành xử hoặc chuyển động, giả sử khi đang nhảy);
  • Thính giác (âm thanh của giọng nói và các cử động);
  • Khứu giác (mùi hương tự nhiên hay nhân tạo; một mùi tồi tệ có thể gây khó chịu).

Đối với những loài động vật khác, pheromone có thể có tác động, mặc dù tác động ấy là không đáng kể trong trường hợp của loài người. Về lý thuyết, một pheromone "sai" có thể khiến một người trở nên khó ưa, kể cả khi vốn dĩ họ có vẻ cuốn hút. Thông thường, nước hoa có mùi hương dễ chịu được sử dụng để khuyến khích người khác giới tính hít vào không khí ở xung quanh người dùng nước hoa, tăng khả năng hít phải các pheromone. Dù dường như có cơ sở khoa học, tầm quan trọng của các pheromone trong những mối quan hệ con người có thể chỉ là hạn chế và phần lớn bị phủ nhận.

Một số người có mức độ ái vật tình dục cao và cảm thấy kích thích tình dục bởi những tác nhân kích thích không thường được liên hệ với hưng phấn tình dục. Mức độ tồn tại của ái vật trong các nền văn hóa khác nhau vẫn còn gây tranh cãi.

Các pheromone đã được xác nhận đóng vai trò trong hấp dẫn tình dục giữa con người. Chúng ảnh hưởng đến sự giải phóng hormone sinh dục, ví dụ như sự chín noãn trong buồng trứng ở nữ giới và sự sản sinh testosterone và tinh trùng ở nam giới.

Lo âu cao độ

Donald G. Dutton và Arthur P. Aron đã thực hiện một nghiên cứu vào những năm 1970 với mục đích tìm ra mối liên hệ giữa hấp dẫn tình dục và các tình trạng lo âu cao độ. Một nữ phỏng vấn viên cuốn hút tiếp cận 85 người tham gia nam trên một cây cầu treo gây cảm giác sợ hãi hoặc trên một cây cầu bình thường. Kết quả, những người được phỏng vấn nữ yêu cầu thực hiện trắc nghiệm tổng giác chủ thể (thematic apperception test) (TAT) trên cây cầu gây sợ hãi viết ra những câu chuyện có nhiều nội dung tình dục hơn và cố gắng liên lạc với người phỏng vấn sau khi thí nghiệm kết thúc nhiều hơn so với những người thực hiện trắc nghiệm TAT trên cây cầu bình thường. Trong một thí nghiệm khác, một người tham gia nam, được chọn từ một nhóm 80 người, được cho biết trước về việc bị sốc điện. Ở cùng họ là một người hỗ trợ nữ quyến rũ và cũng bị sốc điện. Thí nghiệm cho thấy tưởng tượng về tình dục của người nam trong trắc nghiệm TAT có mức độ cao hơn rất nhiều khi họ biết trước về việc bản thân bị sốc điện nhưng người phụ nữ thì không biết. Thông số tình dục là thấp hơn nếu người nữ biết trước là sẽ bị sốc điện nhưng người nam thì không biết.

Sự tăng cường

Con người cố ý hoặc vô thức tăng thêm sức hấp dẫn tình dục hoặc sự thu hút tình dục bởi nhiều lý do. Có thể là để thu hút một người mà họ có thể hình thành một mối quan hệ sâu sắc hơn, để kết bạn, sinh sản, hoặc có một mối quan hệ thân mật, bên cạnh những mục đích khác. Có thể đây là một phần của quá trình hẹn hò tìm hiểu. Nó có thể bao gồm các khía cạnh thể xác hay các quá trình tương tác mà qua đó con người tìm kiếm, hấp dẫn những đối tác tiềm năng và duy trì một mối quan hệ. Những quá trình này, bao hàm cả việc hấp dẫn đối tác và duy trì hứng thú tình dục, có thể gồm việc tán tỉnh với mục đích thu hút sự chú ý tình dục, qua đó khuyến khích hình thành các mối liên hệ lãng mạn và tình dục, và có thể gồm ngôn ngữ cơ thể, hội thoại, bông đùa, hoặc tiếp xúc ngắn với cơ thể.

Những khác biệt giữa giới tính và tính dục

Nam giới có mối quan tâm lớn hơn tới tình dục không ràng buộc so với nữ giới. Nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan tâm này phụ thuộc vào xã hội học nhiều hơn sinh học. Nam giới có hứng thú với những kích thích tình dục qua hình ảnh nhiều hơn nữ. Tuy nhiên, xuất hiện thêm khuynh hướng nhạy cảm hơn về địa vị của đối tác tình dục ở nữ và chú trọng hơn về sự hấp dẫn hình thể của bạn tình tiềm năng ở nam, cũng như khuynh hướng ghen tuông tình dục ở nam và ghen tuông tình cảm ở nữ.

Bailey, Gaulin, Agyei, và Gladue (1994) đã phân tích liệu những kết quả này có thay đổi theo xu hướng tính dục hay không. Nhìn chung, họ nhận thấy giới tính sinh học đóng vai trò lớn hơn trong tâm lý của hấp dẫn tình dục so với xu hướng tính dục. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt về những yếu tố này giữa nữ cũng như nam đồng tính và dị tính. Trong khi nam đồng tính và dị tính có sự quan tâm tâm lý giống nhau về tình dục không ràng buộc trong các dấu hiệu của xu hướng quan hệ ngoài luồng, người đồng tính nam thể hiện số lượng đối tác lớn hơn trong các hành vi thể hiện sự quan tâm này (lý do được cho là sự khác biệt về cơ hội). Người đồng tính nữ thể hiện mối quan tâm lớn hơn đáng kể so với người dị tính nữ về các kích thích thị giác và đánh giá địa vị của đối tác ít quan trọng hơn trong những mối quan hệ lãng mạn. So với người đồng tính nam, ý thích với đối tác trẻ tuổi hơn ở người dị tính nam lớn hơn đáng kể. Những người vô tính luyến ái có thể không cảm thấy bị hấp dẫn tình dục bởi bất kỳ ai. Bán vô tính luyến ái bao gồm những người chỉ có trải nghiệm về hấp dẫn tình dục trong một số trường hợp nhất định; ví dụ, chỉ sau khi đã hình thành một sự kết nối về mặt tình cảm. Điều này thường thay đổi theo từng người.

Những khuynh hướng lựa chọn tình dục và các hormone

Giả thuyết thay đổi do rụng trứng cho rằng người mang giới tính sinh học nữ thường biểu hiện những hành vi và ham muốn tình dục khác nhau tại các thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh nguyệt, như một phương thức thích nghi về mặt tiến hóa để đảm bảo chọn được bạn tình với phẩm chất tốt để giao cấu trong khoảng thời gian dễ thụ thai nhất của chu kỳ.

Khuynh hướng tình dục của giới tính nữ về hình dạng khuôn mặt nam thay đổi theo xác suất thụ thai. Theo các phát hiện, trong giai đoạn "dễ thụ thai" của chu kỳ kinh nguyệt, đối với các mối quan hệ ngắn hạn, nữ giới thường bị hấp dẫn bởi nam giới với khuôn mặt ít nữ tính/nam tính hơn. Khác với nam, sự hưng phấn tình dục ở nữ mang tính chất chung—không hướng cụ thể về nam hay nữ. Theo nghiên cứu trên, có khả năng sự hưng phấn tình dục ở nữ trở nên cụ thể hơn về giới tính tại những thời điểm dễ thụ thai nhất của chu kỳ kinh nguyệt.

Ở nam, một khuôn mặt nam tính đồng nghĩa với ít bệnh về đường hô hấp hơn, khiến những đặc điểm nam tính trở thành dấu hiệu của sức khỏe và thành công trong sinh sản. Khuynh hướng lựa chọn khuôn mặt nam tính chỉ được ghi lại trong những lựa chọn bạn tình ngắn hạn. Vì vậy, có ý kiến cho rằng giới tính nữ chỉ bị hấp dẫn bởi những khuôn mặt nam tính trong khoảng thời gian rụng trứng bởi sự nam tính phản ánh thể chất tốt, được dùng để đảm bảo thành công trong sinh sản. Mặc dù những khuynh hướng này có thể trở nên ít quan trọng hơn trong thời đại ngày nay, sự giải thích theo khía cạnh tiến hoá cho biết lý do những ảnh hưởng đó được ghi lại.

Tương tự với sự nam tính, giới tính nữ cũng nhạy cảm hơn với mùi hương của những người mang giới tính nam có mức độ ổn định phát triển cao. Bởi tính đối xứng dường như phản ánh vô số đặc điểm đáng mong muốn ở nam, hiển nhiên họ sẽ trở nên đáng mong muốn hơn đối với những người giới tính nữ đang tìm kiếm bạn tình có phẩm chất tốt. Do đó, trong kỳ rụng trứng, khi đạt đến khả năng sinh sản cao nhất, nữ giới thường có khuynh hướng lựa chọn những người mang giới tính nam có tính đối xứng. Bởi sẽ có lợi cho nam giới bất cân đối nếu họ tiết ra mùi tương tự như nam giới cân đối, tín hiệu của nữ được dùng để phát hiện sự đối xứng được cho là đáng tin cậy (nam giới bất cân xứng không thể giả mạo nó).

Ngoài ra, giới tính nữ cũng có những khuynh hướng hành vi khác nhau đối với nam giới tại những giai đoạn khác nhau của chu kỳ. Có thể nhận thấy ở nữ xuất hiện khuynh hướng lựa chọn những giọng nói nam tính hơn vào cuối giai đoạn nang trứng, giai đoạn dễ thụ thai của chu kỳ kinh nguyệt. Họ đặc biệt nhạy cảm với cao độ giọng nói và độ dài đường dẫn âm rõ ràng, những đặc điểm liên quan đến testosterone. Hiệu ứng này được thấy nhiều nhất ở nữ giới ít nữ tính (có mức E3G thấp), so với những người có mức E3G cao hơn. Có ý kiến cho rằng sự khác biệt về khuynh hướng này là do nữ giới nữ tính thành công hơn trong việc có được sự đầu tư của nam giới. Họ không cần phải thay đổi khuynh hướng giao cấu trong suốt chu kỳ. Có thể nữ giới nam tính hơn có những thay đổi này nhằm tăng cơ hội đạt được sự đầu tư.

Có phát hiện rằng giới tính nữ thấy bị hấp dẫn tình dục nhiều hơn với nam giới không phải là đối tác của mình khi gần kỳ rụng trứng so với khi ở trong giai đoạn hoàng thể. Nữ giới có bạn tình sở hữu mức độ ổn định phát triển cao bị thu hút bởi nam giới khác bạn tình của họ nhiều hơn khi có thể thụ thai. Điều này có thể được hiểu là sự thích ứng của nữ giới với việc bị hấp dẫn bởi nam giới sở hữu các dấu hiệu của sự phù hợp về gen, vì vậy, sự hấp dẫn tình dục dựa vào các phẩm chất đối tác của nữ.

Kỳ rụng trứng và sự phô diễn

Mức độ hormone trong suốt chu kỳ kinh nguyệt ảnh hưởng tới hành vi của nữ giới trong khuynh hướng lựa chọn và trong những hành vi dễ nhận thấy. Hiệu ứng phô diễn là một hiện tượng chịu ảnh hưởng của một giai đoạn trong chu kỳ kinh nguyệt, đề cập đến cách thức nữ giới thể hiện bản thân với mục đích thu hút những đối tác tình dục tiềm năng. Các nghiên cứu đã nhận thấy rằng khi nữ giới tới càng tới gần kỳ rụng trứng, họ càng ăn mặc khêu gợi, và càng được đánh giá là hấp dẫn hơn.

Tương tự như chức năng ở động vật, có nhiều khả năng sự phô diễn này là để thu hút đối tác tiềm năng và động cơ thúc đẩy của giới tính nữ giới có thể thay đổi theo chu kỳ. Nghiên cứu về mối quan hệ này đã phát hiện ra rằng những người mang giới tính nữ đến hộp đêm và đánh giá trang phục của họ là "gợi cảm" và "táo bạo", cũng cho biết ý định cho buổi tối là tán tỉnh và về nhà cùng một người bạn tình. Mặc dù lý do trực tiếp không thể được xác định rõ, nghiên cứu này đề xuất rằng có một liên kết trực tiếp giữa sự phô diễn của nữ và động cơ thúc đẩy thu hút bạn tình.

Có thể nữ giới nhạy cảm hơn với các thay đổi về sức hấp dẫn hình thể của họ trong suốt chu kỳ: trong những giai đoạn dễ thụ thai nhất, mức độ của sức hấp dẫn tăng. Vì thế, họ chọn thể hiện sự hấp dẫn tăng thêm qua phương pháp phô diễn này.

Trong những khoảng thời gian mất cân bằng hormone, hoạt động tình dục ở nữ giới đạt đến đỉnh. Bởi những phát hiện này được ghi nhận với hoạt động tình dục do nữ bắt đầu mà không phải với hoạt động do nam bắt đầu, nguyên nhân có vẻ là những thay đổi hormone trong chu kỳ kinh nguyệt. cũng như có nhiều hơn mong muốn tham dự các bữa tiệc hoặc tới các hộp đêm, những nơi có khả năng gặp gỡ các đối tác nam.

Phản ứng của giới nam với kỳ rụng trứng

Những thay đổi hormone trong chu kỳ của nữ giới ảnh hưởng đến cách họ hành xử và cách nam giới đối xử với họ. Nghiên cứu đã tìm ra rằng nam giới thường quan tâm và yêu thương đối tác của họ hơn nhiều trong giai đoạn dễ thụ thai nhất của chu kỳ, so với giai đoạn hoàng thể. Nam giới càng trở nên dễ ghen tuông và có tính chiếm hữu hơn với đối tác trong giai đoạn này. Rất có thể những thay đổi này trong hành vi của nam là kết quả của việc đối tác nữ tăng ham muốn tìm kiếm và tán tỉnh nam giới khác. Do đó, những thích nghi về hành vi này phát triển như một hình thức bảo vệ bạn tình, tăng khả năng duy trì mối quan hệ của giới tính nam và tăng cơ hội thành công trong sinh sản.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|_Sự tán tỉnh_, tranh của [[Eugene de Blaas.]] **Hấp dẫn tình dục** là sự hấp dẫn dựa trên thèm muốn tình dục hoặc khả năng khơi dậy những ham muốn đó. Sức hấp dẫn tình
**Hấp dẫn tình dục di truyền** là một khái niệm trong đó một sự hấp dẫn tình dục mạnh mẽ có thể phát triển giữa những người họ hàng gần gũi, những người gặp nhau
**Sự hấp dẫn về tính dục đối với người chuyển giới** là một chủ đề nghiên cứu khoa học và dư luận xã hội. Các nhà tâm lý học đã nghiên cứu sự hấp dẫn
**Xu hướng tính dục** là một loại hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) một cách lâu dài đối với những người thuộc giới tính hoặc giới khác, thuộc cùng
thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người **Tính dục ở loài người** là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**Vô tính luyến ái** (tiếng Anh: _Asexuality_) là sự không bị hấp dẫn tình dục, hoặc không hay ít quan tâm đến các hoạt động tình dục. Nó có thể được xem là sự không
**Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã** là một chẩn đoán sức khỏe tâm thần gây nhiều tranh cãi, được đưa vào _Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần_
**Tính dục nữ của con người** bao gồm một loạt các hành vi và quá trình, trong đó có: xu hướng tính dục và hành vi tình dục của nữ, các khía cạnh sinh lý,
**Tính dục nam ở người** bao gồm nhiều loại cảm xúc và hành vi. Cảm giác bị thu hút (bởi ai và giới nào) của người nam có thể bắt nguồn từ đặc điểm thể
Hai con sư tử đang giao cấu ở [[Maasai Mara, Kenya]] phải|nhỏ| "Sự giao hợp giữa nam và nữ" (tranh [[Leonardo da Vinci vẽ khoảng 1492), mô tả những gì xảy ra bên trong cơ
Có những khó khăn trong xác định **nhân khẩu học** **xu hướng tính dục** vì những lý do sau đây. Một trong những lý do chính làm cho kết quả của những thống kê số
right|thumb|Cô gái tóc vàng với kính râm ở Đức right|thumb|Cosplay girl đeo kính right|thumb|Cô gái mang kính với chiếc khuyên right|thumb|Một cô gái mang kính với khuyên xỏ trên ngực right|thumb right|thumb **Hấp dẫn kính**
nhỏ|phải|Tranh vẽ tả cảnh đời sống tình dục của người xưa **Đời sống tình dục** (_Sex life_) là một lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày của một cá nhân có thể liên quan đến
Đề cương sau đây cung cấp một cái nhìn tổng quan cũng như hướng dẫn chủ đề về tình dục ở người: **Tình dục ở loài người** là khả năng có những trải nghiệm và
nhỏ|Đèn dầu La Mã miêu tả cảnh tình dục với động vật, khoảng thế kỷ I - III nhỏ|[[Pan (thần thoại)|Thần Pan quan hệ tình dục với một con dê, tượng ở Herculaneum, năm 1752]]
**Ham muốn tình dục với máy móc** hoặc **tính ưa máy móc** (tiếng Anh: **mechanophilia** hay **mechaphilia**) là một dạng lệch lạc tình dục liên quan đến sự hấp dẫn tình dục đối với máy
Giả thuyết về tính dục có liên quan đến nội tiết tố cho rằng, cũng như sự tiếp xúc với một số nội tiết tố đóng vai trò trong việc phát triển giới tính của
nhỏ|phải|Cảnh nàng Bathsheba đang tắm, trong Kinh Thánh thì đây là câu chuyện chỉ về mối liên hệ giữa khỏa thân và tình dục **Khỏa thân và tình dục** (_Nudity and sexuality_) chỉ về mối
nhỏ|phải|Công việc lau chùi xe cộ không quá đặc biệt, nhưng với xu hướng "_tình dục hoá_", hình ảnh những cô gái xịt rửa xe đã trở thành [[biểu tượng gợi cảm, gọi mời bởi
nhỏ|350x350px|Một trong những minh họa cho tác phẩm De Figuris Veneris của [[Édouard-Henri Avril. Miêu tả một người đàn ông thủ dâm trong khi mơ tưởng về tình dục.]] **Mơ tưởng tình dục**, hay **tưởng
**Lệch lạc tình dục** (tiếng Anh: _paraphilia_ hoặc _sexual deviation_) là một hành vi bất thường, có biểu hiện bằng sự say mê tìm kiếm một phương thức hoạt động tình dục đặc biệt, không
**Song tính luyến ái** (tiếng Anh: **Bisexuality**) chỉ sự hấp dẫn hoặc hành vi tình cảm hoặc tình dục với giới nam và nữ hoặc nhiều hơn một giới. "Song tính" cũng có thể được
nhỏ|Lá cờ nhằm đại diện cho phổ vô tính **Bán vô tính**, hay còn được gọi là **Bán tính** (tiếng Anh: **Gray-asexuality** hoặc **Graysexuality**, hay **Greysexuality, Grey-asexuality**) là một xu hướng tính dục nằm trong
Trước đây, các tài liệu cho rằng **tính dục của người chuyển giới** (tiếng Anh: transgender sexuality) tách biệt với khái niệm tính dục truyền thống. Trong hầu hết thế kỷ 20, khái niệm này
nhỏ|220x220px|Cờ của cộng đồng người Pansexual nhỏ|Cờ của cộng đồng người Omnisexual **Toàn tính luyến ái** (tiếng Anh: **Pansexuality** và **Omnisexuality**) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Yếu tố môi trường** ảnh hưởng đến quá trình hình thành **xu hướng tính dục** đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành xu hướng
**Vốn giới tính** là một hình thức giá trị xã hội được thụ hưởng bởi một cá nhân, như một kết quả của hấp dẫn giới tính của mình. Như với các hình thức khác
nhỏ|phải|Một diễn viên nhập vai người đàn ông tốt **Một người đàn ông tốt** hay một **chàng trai tử tế** (_Nice guy_) là thuật ngữ được nhắc đến nhiều trong công luận nói chung, trong
| data4 = | header5 = | belowstyle = | below = Trích dẫn bài báo công bố trên Phys. Rev. Lett. Trước đó các nhà vật lý mới chỉ biết sự tồn tại của
Xu hướng tính dục là một sự hấp dẫn lâu dài về tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người cùng giới hoặc giới tính khác, hoặc với cả hai giới
nhỏ|Ishtar, nữ thần Mesopotamian của tình yêu và chiến tranh. Nữ thần này được liên kết với tình dục, tình yêu và khả năng sinh sản. nhỏ| [[Tây Thi (西施), sinh năm 506 TCN, là
**Tình dục học** là một môn học về tình dục đề cập đến toàn bộ những vấn đề liên quan đến tình dục của con người. Tình dục học (human sexuality studies) là một môn
thumb|Những nữ thí sinh trong một [[cuộc thi áo tắm, trong mối liên hệ này thì những người phụ nữ được đánh giá cao vì những đặc điểm thân thể hấp dẫn hơn là các
thumb|Hình ảnh sóng hấp dẫn, do [[LIGO|Advanced LIGO thông báo phát hiện trực tiếp và công bố ngày 11/2/2016.]] Trong vật lý học, **sóng hấp dẫn** (tiếng Anh: _gravitational wave_) là những dao động nhấp
thumb|Mô tả tình dục hậu môn **Tình dục hậu môn,** (tiếng Anh: _anal sex_) hay còn gọi là **giao hợp hậu môn** (_anal intercourse_), **giang giao** hoặc **kê gian**, thường chỉ hành vi tình dục
Hầu hết phụ nữ mang thai có thể tham gia vào các **hoạt động tình dục trong suốt thời kỳ mang thai**. ## Giảm ham muốn và tần suất tình dục Hầu hết các nghiên
nhỏ|Chu kỳ đáp ứng tình dục điển hình **Chu kỳ đáp ứng tình dục của con người** là một mô hình bốn giai đoạn của các phản ứng sinh lý đối với kích thích tình
nhỏ|Tyrone Power ôm Alice Faye trong bộ phim năm 1938 _Alexander's Ragtime Band_. nhỏ|Một hiệp sĩ giải cứu một phụ nữ khỏi một con rồng, tranh của Ivan Bilibin **Lãng mạn** là một cảm xúc
**Bệnh lây truyền qua đường tình dục** còn gọi là **bệnh hoa liễu**, hay **nhiễm trùng lây qua đường tình dục** là bệnh có xác suất truyền từ người sang người thông qua các hành
nhỏ|Ảnh Todsünden (Goltzius). **Ham muốn tình dục** (tiếng Anh: _libido_) là nói về sự ham muốn hoặc thôi thúc tình dục của một người. Ham muốn tình dục chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố
Nhóm **thiểu số tính dục** (_tiếng Anh_: sexual minority) là một nhóm người có bản dạng, xu hướng tính dục hay hoạt động tình dục không tương đồng với đa số mọi người trong xã
nhỏ|Áp phích nhằm tuyên truyền về [[tình dục an toàn cho đối tượng MSM ở Việt Nam]] **Nam có quan hệ tình dục với nam** hay **MSM** (tiếng Anh: _Men who have sex with men_
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
**Sự tương quan giữa số lượng anh trai và xu hướng tính dục** đã được đề xuất trong những nghiên cứu gần đây. Ray Blanchard đã phát hiện ra sự tương quan này và gọi
Mối quan hệ giữa **sự thuận tay** và **xu hướng tính dục** đã xuất hiện trong một vài nghiên cứu khoa học, những nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người thuận tay phải
nhỏ|phải|Các nhà tranh đấu cho quyền được tình dục gồm [[Allison Wolfe, Anna Oxygen, Jen Smith]] **Quyền về tình dục** (_Right to sexuality_) hay **quyền được tình dục** hoặc **quyền tình dục** là quyền con
**Ám ảnh tình dục** (_Sexual obsessions_) là những suy nghĩ dai dẳng và khôn nguôi về hoạt động tình dục. Những nghiên cứu ở xã hội phương Tây và các nước công nghiệp phát triển
nhỏ|225x225px **Làm tình bằng miệng**, còn gọi là **tình dục đường miệng** hay **khẩu giao**, là hình thức quan hệ tình dục có sử dụng miệng (bao gồm môi, răng và lưỡi) tiếp xúc với