✨Giới tính xã hội

Giới tính xã hội

thumb|Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).|thế= nhỏ|Biểu tượng của phi nhị giới. Giới tính xã hội (tiếng Anh: gender), giới, hay phái tính, là các đặc điểm liên quan đến sự khác biệt giữa nam tính và nữ tính. Tùy thuộc vào văn cảnh, những đặc điểm này có thể bao gồm giới tính sinh học (tức là giới tính nam, giới tính nữ hoặc Liên giới tính), các cơ cấu xã hội dựa trên giới tính (gồm vai trò giới và các vai trò xã hội khác), hay bản dạng giới. Hầu hết các nền văn hóa đều sử dụng hệ nhị phân để phân loại giới là nam và nữ; những người có giới nằm ngoài hệ nhị phân này đều nằm trong nhóm phi nhị nguyên giới hoặc đa dạng giới. Một số xã hội có một hay nhiều giới khác ngoài nam và nữ, như là hijra của người Ấn Độ và Two-Spirit của thổ dân châu Mỹ; những người này nằm trong nhóm giới thứ ba.

Giới của một người hình thành trong quá trình trưởng thành của người đó. Khái niệm này do John Money đề xuất vào năm 1955, đề cập tới giới tính theo phương diện là một vai trò xã hội để phân biệt với giới tính sinh học. cũng như những tài liệu được viết bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Sau đó, vào năm 2011, FDA đảo ngược lại vị trí của hai thuật ngữ và bắt đầu sử dụng "giới tính" là thuật ngữ để phân loại các đặc điểm sinh học và giới theo nghĩa "cách một người thể hiện bản thân là nam hay nữ, hoặc cách một người được nhận dạng bởi thiết chế xã hội dựa vào thể hiện giới của họ".

Khoa học xã hội có một nhánh chuyên nghiên cứu về giới. Một số các bộ môn khoa học khác, như tình dục học và khoa học thần kinh, cũng quan tâm tới chủ đề này. Khoa học xã hội coi giới là một sự kiến tạo xã hội, và bộ môn nghiên cứu giới cũng vậy, trong khi nghiên cứu của khoa học tự nhiên đang tìm hiểu rằng liệu sự khác biệt sinh học giữa giống đực và cái có ảnh hưởng tới sự phát triển giới của con người; tất cả đều dẫn tới những tranh luận rằng liệu những sự khác biệt sinh học có ảnh hưởng tới bản dạng giới đến mức nào. cũng là nguồn gốc của từ họ hàng, loại, vua, và nhiều từ tiếng Anh khác. Nó xuất hiện trong tiếng Pháp hiện đại trong từ genre (loại, cũng như genre sexuel) và có liên quan đến từ gốc Hy Lạp gen- (sản xuất), xuất hiện trong gen, genesisoxygen. Từ điển Từ nguyên học tiếng Anh của Oxford năm 1882 đã định nghĩa giới (gender) là loại, giống, giới tính, bắt nguồn từ cách viết tắt tiếng Latinh của chi (genus), như genere natus, dùng để chỉ sự sinh đẻ. Ấn bản đầu tiên của Từ điển tiếng Anh Oxford (OED1, Tập 4, 1900) ghi nhận ý nghĩa ban đầu của gender là "loại" đã trở nên lỗi thời.

Lịch sử của khái niệm

Khái niệm giới, theo nghĩa hiện đại, là một phát minh gần đây trong lịch sử loài người. Thế giới cổ đại không có cơ sở để hiểu về giới như nó đã được hiểu trong khoa học xã hội và nhân văn trong vài thập kỷ qua.

Chuyên gia về tính dục học John Money đã đưa ra sự phân biệt theo thuật ngữ giữa giới tính sinh học và giới tính như một vai trò vào năm 1955. Trước đó, việc sử dụng từ giới (gender) các phạm trù ngữ pháp là không phổ biến. Ví dụ, trong một thư mục gồm 12.000 tài liệu tham khảo về hôn nhân và gia đình từ năm 1900–1964, thuật ngữ giới thậm chí không xuất hiện một lần nào. Julie Greenberg viết rằng mặc dù giới tính (sex) và giới (gender) là những khái niệm riêng biệt, chúng có mối liên hệ với nhau ở chỗ sự phân biệt giới thường xuất phát từ những định kiến dựa trên những gì được mong đợi ở các thành viên của mỗi giới tính. Trong JEB v. Alabama ex rel. T.B, Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Antonin Scalia đã viết:

Là một phạm trù ngữ pháp

Tuy nhiên, từ này vẫn được sử dụng rộng rãi với ý nghĩa cụ thể về giới ngữ pháp (việc gán danh từ cho các mục như nam tính, nữ tínhvô tính). Theo Aristotle, khái niệm này được đưa ra bởi nhà triết học Hy Lạp Protagoras. Năm 1926, Henry Watson Fowler tuyên bố rằng định nghĩa của từ gắn liền với nghĩa liên quan đến ngữ pháp này:

Là một vai trò xã hội

Chuyên gia về tính dục học John Money đã đặt ra thuật ngữ vai trò giới và là người đầu tiên sử dụng nó trong bản in trên một tạp chí chuyên ngành khoa học. Trong một bài báo năm 1955, ông đã định nghĩa nó là "tất cả những điều mà một người nói hoặc làm để tiết lộ về bản thân họ là có tư cách là con trai hay đàn ông, con gái hay phụ nữ".

Nghĩa học thuật hiện đại của từ này, trong bối cảnh vai trò xã hội của nam và nữ, xuất hiện từ năm 1945, và được phổ biến và phát triển bởi phong trào nữ quyền từ những năm 1970 trở đi (xem § Thuyết nữ quyền và nghiên cứu về giới), giả thuyết rằng bản chất con người về cơ bản là epicene (trung tính) và sự khác biệt xã hội dựa trên giới tính được xây dựng một cách tùy tiện. Trong bối cảnh này, các vấn đề liên quan đến quá trình lý thuyết về kiến tạo xã hội này được dán nhãn là các vấn đề về giới.

Việc sử dụng phổ biến từ giới (gender) chỉ đơn giản là một sự thay thế cho giới tính (sex) (như một phạm trù sinh học) cũng phổ biến, mặc dù vẫn có những nỗ lực để giữ sự khác biệt. Từ điển Di sản Hoa Kỳ (2000) sử dụng hai câu sau để minh họa sự khác biệt, lưu ý rằng sự khác biệt "về nguyên tắc là hữu ích, nhưng nó không có nghĩa là được tuân theo và sự khác biệt đáng kể trong cách sử dụng xảy ra ở mọi cấp độ".

Bản dạng giới và vai trò giới

nhỏ|Giới được miêu tả như một hiện tượng gây mơ hồ, bởi một diễn viên trẻ người Thụy Điển.Bản dạng giới là nhận dạng cá nhân của một người đối với một giới nhất định và vai trò giới trong xã hội. Trong lịch sử cụm từ phụ nữ (woman) có thể được dùng để chỉ cơ thể phụ nữ, mặc dù gần đây cách sử dụng này được xem là khá tranh cãi bởi các nhà nữ quyền.

Các nhà nữ quyền thách thức hệ tư tưởng thống trị này liên quan đến vai trò giới và giới tính sinh học mặc dù có những phân tích định tính cái mà khám phá và trình bày các thể hiện giới. Giới tính sinh học của một người liên kết trực tiếp với các vai trò xã hội và sự mong đợi nhất định. Judith Butler cân nhắc là một người phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn, không chỉ do xã hội coi phụ nữ là một phạm trù xã hội mà còn là cảm nhận về bản thân, một bản dạng chủ quan được điều chỉnh hoặc xây dựng về mặt văn hóa. Bản dạng xã hội đề cập đến sự gắn kết với một tập thể hoặc một phạm trù xã hội tạo ra một nền văn hóa chung giữa những người tham gia. Theo lý thuyết bản dạng xã hội, một thành phần quan trọng của định nghĩa bản thân có nguồn gốc từ tư cách thành viên trong các nhóm và phạm trù xã hội; diều này được thể hiện bằng các quy trình nhóm và mối quan hệ giữa các nhóm tác động đáng kể đến nhận thức và hành vi của cá nhân như thế nào. Các nhóm mà mọi người thuộc về định nghĩa các thành viên họ là ai và họ nên cư xử như thế nào trong phạm vi xã hội của họ. nhỏ|Một người biểu tình cầm một tờ giấy với dòng chữ "Giới giống như là bộ áo liền quần của anh/chị họ tôi. Nó được trao cho tôi và không vừa với tôi" ở một cuộc biểu tình cho quyền bình đẳng của người chuyển giới ở Washington D.C. vào 2013 Việc phân loại nam và nữ vào các vai trò xã hội tạo ra một vấn đề, bởi vì các cá nhân cảm thấy họ phải ở một đầu của phổ tuyến tính và phải xác định mình là nam hay nữ, thay vì được phép chọn một phần ở giữa. Trên toàn cầu, các cộng đồng giải thích sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và nữ giới để tạo ra những kỳ vọng xã hội cái mà xác định hành vi "phù hợp" cho nam giới và nữ giới và xác định khả năng tiếp cận khác nhau của nữ giới và nam giới đối với quyền, nguồn lực, quyền lực trong xã hội và các hành vi về sức khỏe. Mặc dù bản chất cụ thể và mức độ của những khác biệt này khác nhau giữa các cộng đồng, chúng vẫn nghiêng về thiên vị nam giới, tạo nên sự mất cân bằng về quyền lực và bất bình đẳng giới trong các xã hội. Nhiều nền văn hóa có những hệ thống chuẩn mực khác nhau và tín ngưỡng dựa vào giới, nhưng không hề có một tiêu chuẩn chung nào đối với vai trò nam tính hay nữ tính trong các nền văn hóa. Vai trò xã hội của nam và nữ dựa trên các chuẩn mực văn hóa của xã hội đó, dẫn đến việc hình thành các hệ thống giới. Hệ thống giới là cơ sở của các khuôn mẫu xã hội trong nhiều cộng đồng, cái mà bao gồm sự phân biệt giới tính và tính ưu việt của các chuẩn mực nam tính. Do đó, "quyền lực" là thứ quyết định phẩm chất, hành vi, etc. của một con người, và con người là một phần của tập hợp cấu trúc về bản thể và tri thức của tên và nhãn dán. Ví dụ, có những đặc điểm được cho là nữ giới, và là một người phụ nữ cho thấy người đó yếu đuối, dễ xúc động, thiếu lý trí, không có khả năng thực hiện những hành động thường được quy cho "đàn ông". Butler nói rằng giới và giới tính giống động từ hơn là danh từ. Cô ấy lý luận rằng hành động của cô ấy bị hạn chế ví cô ấy là phụ nữ. "Tôi không được phép xây dựng giới và giới tính của mình một cách tự nguyện," cô nói. "[Điều này] là như vậy bởi vì giới tính bị kiểm soát về mặt chính trị và do đó bị kiểm soát về mặt xã hội. Thay vì 'phụ nữ' là một cái gì đó, nó là một cái gì đó mà một người làm".

Sự phân chia xã hội và sự linh hoạt giới

Theo nhà nghiên cứu về giới Kate Bornstein, giới có nhiều nghĩa và linh hoạt. Có 2 ý tưởng trái ngược nhau về định nghĩa của giới, và sự giao nhau của cả hai có thể được định nghĩa như sau:

Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa giới là kết quả của những ý tưởng được xây dựng trong xã hội về hành vi, hành động và vai trò của một giới tính cụ thể. Những vai trò này có được từ nhiều nguồn liên quan đến nhau như là ảnh hưởng của bố mẹ, môi trường giáo dục của trẻ, và truyền thông đại chúng. Học hỏi về vai trò giới bắt đầu từ khi sinh ra và bao gồm những thứ đơn giản như em bé được cho mặc màu gì hoặc được cho chơi đồ chơi gì. Tuy nhiên, giới của một người không lúc nào cũng phù hợp với điều được chỉ định lúc ra đời. Những yếu tố khác ngoài những hành vi học được đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giới.

Sự phân loại xã hội

nhỏ|[[Mary Frith ("Moll Cutpurse") ("Moll Cutpurse") đã gây náo loạn xã hội ở thế kỷ thứ 17 khi mặc quần áo nam, hút thuốc nơi công cộng và thách thức vai trò giới.]] Chuyên gia về tính dục học John Money đã tao ra thuật ngữ vai trò giới vào năm 1955. Thuật ngữ vai trò giới được định nghĩa là những hành động hay phản ứng cái mà có thể tiết lộ người ta là nam hay nữ. Những yếu tố bao quanh vai trò giới bao gồm quần áo, cách giao tiếp, nghề nghiệp, và những yếu tố khác không bị giới hạn bởi giới tính sinh học. Ngược lại với các cách tiếp cận phân loại, một số nhà triết học nữ quyền đã lập luận rằng giới "là một tổ hợp rộng lớn của các phổ khúc tinh tế giữa bản thân và người khác", chứ không phải là "nguyên nhân riêng tư đằng sau các hành vi hiển nhiên".

Giới phi nhị nguyên và giới thứ ba

Trong lịch sử, phần lớn các cộng đồng chỉ công nhận hai loại vai trò giới khác nhau, rộng rãi, hệ nhị phân giữa sự nam tính và sự nữ tính, phần lớn tương ứng với giới tính sinh học của nam và nữ. Khi một đứa trẻ được sinh ra, xã hội phân chúng theo một giới này hay giới còn lại, tùy vào bộ phận sinh dục của đứa trẻ. hay là người Ojibwe ikwekaazo, "nam giới chọn sống như phụ nữ", hoặc ininiikaazo, "nữ giới chọn sống như đàn ông". tuy nhiên, những thuật ngữ chung, thuật ngữ mới và cách nhìn nhận về giới không nhất thiết phải là loại kiến tạo văn hóa mà các thành viên truyền thống hơn của các cộng đồng này đồng ý với.

Cộng đồng người hijras ở Ấn Độ và Pakistan thường được xem là thuộc giới thứ ba. Một ví dụ khác là người muxe (phát âm là [ˈmuʃe]), ở bang Oaxaca, miền nam Mexico. Người Bugis ở Sulawesi, Indonesia có truyền thống kết hợp tất cả các đặc điểm trên.

Ngoài các giới thứ ba được truyền thống công nhận này, nhiều nền văn hóa hiện nay công nhận các bản dạng giới phi nhị nguyên theo mức độ khác nhau. Người phi nhị nguyên giới (hay đa dạng giới) có bản dạng giới không bao gồm riêng sự nam tính hay nữ tính. Họ có thể xác định là có sự trùng lặp về bản dạng giới, có hai giới hoặc nhiều hơn, vô giới, có bản dạng giới thay đổi hoặc thuộc giới thứ ba hoặc giới khác. Việc thừa nhận giới phi nhị nguyên vẫn còn khá mới mẻ đối với truyền thông đại chúng phương Tây, và những người thuộc phi nhị nguyên giới có thể đối mặt với nguy cơ bị tấn công, quấy rối và phân biệt đối xử.

Joan Roughgarden lập luận rằng một số loài động vật không có lý trí cũng có nhiều hơn hai giới, ở chỗ có thể có nhiều khuôn mẫu cho hành vi cho từng sinh vật với giới tính sinh học nhất định.

Sự đo lường bản dạng giới

Nghiên cứu bản dạng giới ban đầu đã đưa ra giả thuyết về một chiều lưỡng cực duy nhất của sự nam tính-nữ tính, với sự nam tính và nữ tính đối lập trên một miền liên tục. Các giả định về mô hình đơn chiều bị thách thức khi các khuôn mẫu thay đổi, dẫn đến sự phát triển của mô hình bản dạng giới hai chiều. Trong mô hình, sự nam tính và nữ tính được khái niệm thành hai chiều riêng biệt và trực giao, cùng tồn tại ở những mức độ khác nhau trong một cá thể. Khái niệm về sự nữ tính và nam tính này vẫn là tiêu chuẩn được chấp nhận ngày nay.

Hai công cụ kết hợp bản chất đa chiều của sự nam tính và nữ tính đứng đầu nghiên cứu bản dạng giới: The Bem Sex Role Inventory (BSRI) và the Personal Attributes Questionnaire (PAQ). Cả hai công cụ đều phân loại các cá nhân hoặc là theo giới tính (nam giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nam tính, nữ giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nữ tính), hoặc theo giới tính chéo (nam giới nhận dạng chủ yếu với các đặc điểm nữ tính, nữ giới nhận dạng chủ yếu bằng các đặc điểm nam tính), hoặc lưỡng tính (nam giới hoặc nữ giới nhận dạng mình có cả đặc điểm nữ tính và nam tính) hay không phân biệt (nam giới hoặc nữ giới nhận dạng mình ít có cả đặc điểm nữ tính và nam tính).

Thuyết nữ quyền và các nghiên cứu về giới

Nhà sinh vật học và nữ quyền học Anne Fausto-Sterling bác bỏ bài tranh luận giữa thuyết sinh học quyết định và thuyết xã hội quyết định, đồng thời ủng hộ việc phân tích sâu hơn về cách mà sự tương tác giữa bản thể sinh học và môi trường xã hội ảnh hưởng đến năng lực của cá nhân. Nhà triết học và nữ quyền Simone de Beauvoir đã áp dụng thuyết hiện sinh vào kinh nghiệm sống của phụ nữ: "Con người ta không sinh ra đã là phụ nữ, con người ta trở thành phụ nữ". Theo ngữ cảnh, đây là một phát biểu triết học. Tuy nhiên, nó có thể được phân tích theo khía cạnh sinh học - một cô gái phải vượt qua tuổi dậy thì để trở thành phụ nữ - và xã hội học, vì rất nhiều mối quan hệ mang tính trưởng thành giữa bối cảnh xã hội là có được từ việc học hỏi hơn là từ bản năng.

Trong bản thân thuyết nữ quyền, thuật ngữ về các vấn đề giới đã được phát triển trong những năm 1970. Trong ấn bản năm 1974 của Tính nam/Tính nữ hoặc Con người, tác giả sử dụng thuật ngữ "giới bẩm sinh" và "các vai trò giới tính đã học được", nhưng trong ấn bản năm 1978, nghĩa sử dụng của từ giới tínhgiới đã được đảo ngược. Đến năm 1980, hầu hết các bài viết về nữ quyền đã đồng ý về việc chỉ sử dụng từ giới cho các đặc điểm học được từ việc thích nghi với văn hóa xã hội.

Trong các nghiên cứu về giới, thuật ngữ giới dùng để chỉ các cấu trúc xã hội và văn hóa được đề xuất về tính nam và tính nữ. Trong ngữ cảnh này, thuật ngữ giới đặc biệt bỏ qua việc đề cập đến sự khác biệt sinh học, và tập trung vào sự khác biệt trong văn hóa. Điều này xuất hiện từ một số lượng nhất định các lĩnh vực khác nhau: trong xã hội học trong những năm 1950; từ các lý thuyết của nhà phân tâm học Jacques Lacan; và trong tác phẩm của các nhà phân tích tâm lý người Pháp như Julia Kristeva, Luce Irigaray, và các nhà nữ quyền Mỹ như Judith Butler. Những người theo sau Butler coi vai trò giới là một sự áp dụng vào thực tiễn, đôi khi là "mang tính hình thức".

Charles E. Hurst từng phát biểu rằng một số người nghĩ rằng tình dục sẽ "...tự động xác định thái độ và vai trò giới tính (xã hội) cũng như xu hướng tình dục của một người (sự hấp dẫn tính dục và hành vi tính dục)". Các nhà xã hội học về giới tin rằng con người có nguồn gốc văn hóa và thói quen trong việc ứng xử với giới tính.Ví dụ, Michael Schwalbe tin rằng con người phải được giáo dục về cách ứng xử sao cho phù hợp với giới tính được chỉ định của họ để hoàn thành vai trò giới đúng cách, và rằng cách mọi người cư xử nam tính hoặc nữ tính là kết quả từ việc tương tác với các kỳ vọng xã hội. Schwalbe nhận xét rằng con người "là kết quả của việc nhiều người chấp nhận và hành động theo những ý tưởng tương tự nhau". Mọi người thực hiện điều này thông qua mọi thứ, từ quần áo kiểu tóc, đến lựa chọn mối quan hệ và việc làm. Schwalbe tin rằng những sự khác biệt này rất quan trọng, bởi vì xã hội muốn xác định và phân loại người khác ngay tại thời điểm ta nhìn thấy họ. Họ cần xếp mọi người vào các nhóm riêng biệt để biết nên cảm thấy như thế nào về đối phương.

Hurst nhận xét rằng trong một xã hội mà chúng ta thể hiện giới tính của mình quá khác biệt, thường có thể sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nếu vi phạm các chuẩn mực văn hóa này. Nhiều hậu quả trong số này bắt nguồn từ sự phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục. Những người đồng tính nam và đồng tính nữ thường bị phân biệt đối xử trong hệ thống pháp luật của chúng ta vì những định kiến ​​xã hội. Hurst mô tả cách mà sự phân biệt đối xử này chống lại những người vi phạm các chuẩn mực giới tính, bất kể xu hướng tính dục của họ là gì. Ông nói rằng "các tòa án thường nhầm lẫn giữa giới tính, giới, và xu hướng tính dục, và những sự nhầm lẫn này thường theo cách dẫn đến việc phủ nhận quyền lợi, không chỉ của đồng tính nam và đồng tính nữ, mà còn của những người không thể hiện bản thân hoặc hành động theo cách mà giới tính của họ được kỳ vọng sẽ cư xử theo truyền thống".

Nhà khoa học chính trị Mary Hawkesworth đề cập đến thuyết về giới và nữ quyền, chủ trương rằng từ những năm 1970, khái niệm về giới đã biến đổi và được sử dụng theo những cách khác nhau đáng kể trong giới học thuật nữ quyền. Bà lưu ý rằng một sự chuyển đổi xảy ra khi một số học giả nữ quyền, chẳng hạn như Sandra Harding và Joan Scott, bắt đầu quan niệm về giới "như một phạm trù phân tích mà trong đó con người nghĩ về và tổ chức các hoạt động xã hội của họ". Các học giả nữ quyền trong Khoa học Chính trị bắt đầu sử dụng giới như một phạm trù phân tích, trong đó nhấn mạnh "các mối quan hệ chính trị và xã hội bị các bản kê chính thống bỏ qua". Tuy vậy, Hawkesworth cũng nói rằng "khoa học chính trị nữ quyền đã không trở thành một mô hình thống trị trong ngành".

Nhà khoa học chính trị người Mỹ Karen Beckwith đề cập đến khái niệm "giới" trong khoa học chính trị, lập luận rằng có tồn tại một "ngôn ngữ chung của giới" và nó phải được trình bày rõ ràng để mở rộng xây dựng dựa trên nó trong giới hạn lĩnh vực khoa học chính trị. Beckwith mô tả hai cách mà một nhà khoa học chính trị có thể sử dụng khái niệm 'giới' khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm: "’giới’ mang nghĩa như một phạm trù và như một quá trình". Việc sử dụng ‘giới’ làm một phạm trù cho phép các nhà khoa học chính trị "xác định bối cảnh cụ thể nơi các hành vi, hành động, thái độ và sở thích được coi là nam tính hoặc nữ tính dẫn đến (kết quả chính trị) cụ thể". Nó cũng có thể cho thấy sự khác biệt về giới, không nhất thiết phải tương ứng chính xác với giới tính, và có thể "hạn chế hoặc tạo điều kiện cho các (tác nhân) chính trị". ‘Giới’ với nghĩa một quá trình có hai biểu hiện cốt lõi trong nghiên cứu khoa học chính trị, thứ nhất là xác định "các tác động khác biệt của cấu trúc và chính sách đối với nam giới và phụ nữ", và thứ hai, cách mà các tác nhân chính trị mang tính nam và tính nữ "tích cực làm việc để tạo ra các kết quả thuận lợi về giới".

Liên quan đến các nghiên cứu về giới, Jacquetta Newman nói rằng mặc dù giới tính được xác định về mặt sinh học, cách mọi người thể hiện giới thì không. Định hình giới là một quá trình xã hội được xây dựng dựa trên nền tảng văn hóa, mặc dù thông thường những kỳ vọng về văn hóa xung quanh phụ nữ và nam giới có mối quan hệ trực tiếp với đặc điểm sinh học của họ. Vì điều này, Newman lập luận, nhiều đặc quyền về tình dục là nguyên nhân gây ra áp bức, và bỏ qua các vấn đề khác như chủng tộc, khả năng, sự nghèo đói, v.v. Các lớp nghiên cứu giới hiện nay tìm cách tránh xa điều đó và xem xét tính xen kẽ của những yếu tố này trong việc xác định cuộc sống của con người. Bà cũng chỉ ra rằng các nền văn hóa không phải phương Tây khác không nhất thiết phải có cùng quan điểm về giới và vai trò của giới. Newman cũng tranh luận về ý nghĩa của sự bình đẳng, vốn thường được coi là mục tiêu của nữ quyền; bà tin rằng bình đẳng là một thuật ngữ có vấn đề vì nó có thể mang vô số các nghĩa khác nhau, chẳng hạn như mọi người được đối xử riêng biệt, khác biệt, hay công bằng dựa trên giới tính của họ. Newman tin rằng điều này là có vấn đề vì không có định nghĩa thống nhất về ý nghĩa hoặc hình thức bình đẳng, và điều này có thể có ý nghĩa đáng kể trong các lĩnh vực như chính sách công.

Cấu trúc xã hội đối với các giả thuyết về giới

nhỏ|"[[Rosie the Riveter" là một hình ảnh mang tính biểu tượng của vùng hậu phương ở Mỹ trong Thế chiến thứ hai và biểu trưng cho sự rời xa các giới hạn, "tính nữ", vai trò giới dưới sự ảnh hưởng của các nhu cầu thời chiến.]] Các nhà xã hội học nói chung coi giới là một cấu trúc xã hội, và rất nhiều các nhà nghiên cứu khác nhau, bao gồm nhiều nhà nữ quyền, coi giới tính chỉ là một vấn đề sinh học và một thứ gì đó không có liên hệ với vấn đề xây dựng xã hội hay văn hóa. Ví dụ, nhà tính dục học John Money gợi ý sự phân hóa giữa giới tính sinh học và giới như một vai trò. Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố, "''[G]iới tính' - ám chỉ những đặc điểm sinh học và sinh lý xác định giới tính nam và nữ," và "'giới' - chỉ các vai trò, hành vi, hoạt động và thuộc tính được xây dựng về mặt xã hội mà một xã hội nhất định cho là phù hợp với nam giới và phụ nữ". Do đó, giới tính được coi là một phạm trù nghiên cứu trong sinh học (khoa học tự nhiên), trong khi giới được nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân văn. Lynda Birke, một nhà sinh học nữ quyền, cho rằng "'sinh học' không được coi là thứ có thể thay đổi". Do đó, người ta nói rằng giới tính là thứ không thay đổi, trong khi giới có thể thay đổi theo tùy cấu trúc xã hội.

Tuy nhiên, có học giả cho rằng giới tính cũng được xây dựng theo hướng xã hội. Một ví dụ cho điều này là phát ngôn của nhà lý thuyết giới tính Judith Butler, rằng "có lẽ cấu trúc được gọi là 'giới tính' này được dù xây dựng về mặt văn hóa như giới tính; thực sự, có lẽ nó đã luôn luôn là giới tính, với hậu quả là sự phân hóa giữa giới tính và giới hóa ra lại vốn là không có sự phân hóa nào cả".
Bà tiếp tục:

Do đó, sẽ không rất vô nghĩa nếu định nghĩa giới là cách diễn giải văn hóa của giới tính, nếu bản thân giới tính là một phạm trù lấy giới làm trung tâm. Giới không nên được quan niệm đơn thuần là sự khắc ghi ý nghĩa của văn hóa dựa trên một giới tính nhất định (một quan niệm pháp lý); giới phải đồng thời giúp chỉ định đúng cấu trúc sinh sản mà theo đó giới tính được thiết lập. [...] Việc sản sinh ra định nghĩa giới tính như một tác nhân tiền tranh luận nên được hiểu là do ảnh hưởng của bộ máy xây dựng văn hóa được chỉ định bởi giới tính.

Butler lập luận rằng "cơ thể chỉ xuất hiện, chỉ chịu đựng, chỉ sống trong những ràng buộc về sinh sản của một số ý đồ pháp lý có tính giới cao", và giới tính "không còn là một đặc điểm được ban cho cơ thể mà cấu trúc giới tính được áp đặt một cách giả tạo, mà là một chuẩn mực văn hóa chi phối việc vật chất hóa cơ thể con người".

Liên quan đến lịch sử, Linda Nicholson, giáo sư lịch sử và nghiên cứu phụ nữ, lập luận rằng sự hiểu biết về cơ thể con người là lưỡng hình giới tính vốn từng không tồn tại trong lịch sử. Cô nhấn mạnh rằng bộ phận sinh dục nam và nữ vốn được coi là giống nhau trong xã hội phương Tây cho đến thế kỷ 18. Vào thời điểm đó, bộ phận sinh dục nữ được coi là bộ phận sinh dục nam không hoàn chỉnh, và sự khác biệt giữa hai bộ phận này được coi là vấn đề về mức độ. Nói cách khác, có niềm tin vào sự phân cấp của các dạng vật chất, hay một quang phổ. Các học giả như Helen King, Joan Cadden và Michael Stolberg đã chỉ trích cách lý giải lịch sử này.

Ngoài ra, rút ​​ra từ nghiên cứu thực nghiệm về trẻ em liên giới tính, Anne Fausto-Sterling, giáo sư sinh học và nghiên cứu giới tính, mô tả cách các bác sĩ giải quyết các vấn đề của liên giới tính. Bà bắt đầu lập luận của mình với ví dụ về sự ra đời của một cá thể liên giới tính và duy trì "quan niệm của chúng tôi về bản chất của cách mà sự khác biệt giới về giới định hình, ngay cả khi chúng phản ánh, cách chúng ta cấu trúc hệ thống xã hội và chính thể của mình; chúng cũng đồng thời định hình và phản ánh sự hiểu biết của chúng ta về cơ thể vật lý của mình". Sau đó, bà cũng nói thêm về cách mà các giả định về giới ảnh hưởng đến nghiên cứu khoa học về giới tính bằng cách trình bày nghiên cứu về người liên giới tính của John Money và cộng sự, và bà kết luận rằng "họ không bao giờ nghi vấn về giả định tiên đề rằng chỉ có hai giới tính, bởi mục tiêu của họ khi nghiên cứu những người liên giới tính là để tìm hiểu thêm về sự phát triển 'bình thường'". Bà cũng đề cập tới ngôn ngữ mà các bác sĩ sử dụng khi họ nói chuyện với cha mẹ của những người liên giới tính. Sau khi mô tả cách các bác sĩ thông báo cho các bậc cha mẹ về việc người con là liên giới tính, bà khẳng định rằng do các bác sĩ tin rằng những người liên giới tính thực chất là nam hoặc nữ, họ nói với cha mẹ của những người liên giới tính rằng sẽ mất thêm một chút thời gian để các bác sĩ xác định liệu trẻ sơ sinh là con trai hay con gái. Điều đó có nghĩa là, hành vi của các bác sĩ được hình thành bởi quan điểm văn hóa giới cho rằng chỉ có hai giới tính. Cuối cùng, bà giữ vững quan điểm cho rằng sự khác biệt trong cách mà các chuyên gia y tế ở các khu vực khác nhau đối xử với người liên giới tính cũng cho chúng ta một ví dụ điển hình về cách giới tính được xây dựng về mặt xã hội. Trong bài Giới tính cơ thể: chính trị giới và cấu trúc về giới tính, bà giới thiệu ví dụ sau:

Một nhóm bác sĩ từ Ả-rập Xê-út gần đây đã báo cáo về một số trường hợp trẻ em liên giới tính XX bị tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh (CAH), một rối loạn di truyền của các enzym hỗ trợ tổng hợp hormone vỏ thượng thận. [...] Ở Hoa Kỳ và châu Âu, những đứa trẻ như vậy, vì chúng có tiềm năng sinh con sau này, thường được nuôi dạy như con gái. Các bác sĩ Ả-rập Xê-út được đào tạo theo truyền thống của châu Âu này đã khuyến nghị các hành động như vậy cho các bậc cha mẹ Ả-rập Xê-út của những đứa trẻ CAH XX. Tuy nhiên, một số bậc cha mẹ từ chối chấp nhận khuyến nghị rằng con của họ, ban đầu được xác định là con trai, thay vào đó lại phải được nuôi dưỡng như con gái. Họ cũng không chấp nhận phẫu thuật nữ hóa cho con mình. [...] Về cơ bản, đây là một biểu hiện của thái độ cộng đồng địa phương với [...] sự ưa thích con trai.

Do đó, rõ ràng là văn hóa có thể đóng một vai trò trong việc phân định giới tính, cụ thể là trong vấn đề về trẻ liên giới tính. Tuy vây, các nhà nghiên cứu cũng đã tuyên bố rằng có lẽ giả thuyết mà Hill và Lynch đưa ra là đúng trong quá khứ nhưng hiện không còn chính xác do sự thay đổi của dân số lứa tuổi thanh thiếu niên đối với bản dạng giới-vai trò của họ.

Tác giả của "Hé mở hệ thống Giới: Một quan điểm trên lý thuyết về niềm tin giới và các mối quan hệ xã hội" (Unpacking the Gender System: A Theoretical Perspective on Gender Beliefs and Social Relations), Cecilia Ridgeway và Shelley Correll, cho rằng giới không chỉ là bản dạng hay vai trò, mà là thứ được thể chế hóa thông qua "bối cảnh quan hệ xã hội". Ridgeway và Correll định nghĩa "bối cảnh quan hệ xã hội" là "bất kỳ tình huống nào trong đó các cá nhân xác định bản thân trong mối quan hệ với người khác để hành động". Họ cũng chỉ ra rằng ngoài bối cảnh quan hệ xã hội, niềm tin văn hóa cũng đóng một vai trò trong hệ thống giới. Cặp đồng tác giả lập luận rằng mọi người hàng ngày buộc phải thừa nhận và tương tác với người khác theo những cách liên quan đến giới. Mỗi ngày, các cá nhân tương tác với nhau và tuân theo tiêu chuẩn đặt ra của xã hội về niềm tin bá quyền, bao gồm cả vai trò giới. Họ tuyên bố rằng các niềm tin văn hóa bá quyền của xã hội đặt ra các quy tắc, từ đó tạo ra nền móng cho các bối cảnh quan hệ xã hội sẽ diễn ra. Ridgeway và Correll sau đó chuyển chủ đề của họ sang phân loại giới tính. Các tác giả định nghĩa phân loại giới tính là "quá trình nhận thức xã hội mà qua đó chúng ta gắn nhãn người khác là nam hoặc nữ". Giữa những năm 1960 và 2000, vô số các bé trai mới sinh và sơ sinh khác đã được phẫu thuật xác định lại giới tính thành nữ nếu chúng sinh ra với dương vật dị dạng hoặc nếu chúng bị mất dương vật do tai nạn. Nhiều bác sĩ phẫu thuật đã tin rằng những người đàn ông như vậy sẽ hạnh phúc hơn khi được xác định lại qua phẫu thuật và về mặt xã hội để trở thành phụ nữ. Bằng chứng hiện có chỉ ra rằng trong những trường hợp như vậy, các bậc cha mẹ thường rất tâm huyết trong việc nuôi dạy những đứa trẻ này thành con gái và theo cách thức đặc trưng về giới tính nhất có thể. Sáu trong số bảy trường hợp cung cấp định hướng trong các nghiên cứu cấp tiến dành cho người lớn được xác định là nam giới dị tính luyến ái, với một người giữ bản dạng nữ nhưng bị thu hút bởi phụ nữ. Những trường hợp như vậy không ủng hộ học thuyết cho rằng việc nuôi dạy con cái ảnh hưởng đến bản dạng giới hoặc khuynh hướng tình dục của nam giới bẩm sinh. Trường hợp của Reimer được các tổ chức như Intersex Society (Cộng đồng người liên giới tính) của Bắc Mỹ sử dụng để cảnh báo chống lại việc sửa đổi một cách không cần thiết đối với bộ phận sinh dục của trẻ vị thành niên bất tuân.

Năm 2015, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ phát hành loạt hội thảo qua mạng về giới, bản dạng giới, biểu hiện giới, chuyển giới, v.v. Trong bài giảng đầu tiên, Tiến sĩ Sherer giải thích rằng ảnh hưởng của cha mẹ (thông qua hình phạt và khen thưởng hành vi) có thể ảnh hưởng đến sự thể hiện giới tính nhưng không ảnh hưởng đến bản dạng giới. Bà trích dẫn một bài báo của Smithsonian với một bức ảnh của Tổng thống Franklin D. Roosevelt 3 tuổi với mái tóc dài và mặc một chiếc váy. Trẻ em từ 6 tuổi mặc quần áo trung tính về giới, bao gồm váy trắng, cho đến những năm 1940.

Các yếu tố và quan điểm sinh học

Một số hành vi theo giới chịu ảnh hưởng từ việc tiếp xúc với androgen trước khi sinh và đầu đời. Điều này bao gồm, ví dụ, biểu đạt theo quy tắc giới tính, gán nhãn bản thân với một giới, và xu hướng thực hiện hành vi hung hăng. Con đực của hầu hết các loài động vật có vú, bao gồm cả con người, biểu hiện hành vi biểu đạt thô bạo và lộn xộn hơn, điều này bị ảnh hưởng bởi mức testosterone của từ cá thể mẹ. Những mức độ này cũng có thể ảnh hưởng đến tính dục, với những người phi dị tính thể hiện hành vi tính dục không điển hình trong thời thơ ấu.

Sinh học trong giới đã trở thành chủ đề của một số nghiên cứu ngày càng mở rộng trong suốt cuối thế kỷ 20. Một trong những lĩnh vực được quan tâm sớm nhất là thứ sau này được biết đến với cái tên "rối loạn nhận dạng giới" (GID) và hiện nay còn được gọi là chứng phiền muộn giới. Các nghiên cứu về lĩnh vực này và các lĩnh vực liên quan đã cung cấp thông tin cho tóm tắt sau đây về chủ đề này của John Money. Ông nêu ra quan điểm:Money đề cập đến nỗ lực phân biệt rõ sự khác biệt giữa giới tính sinh học và giới về mặt xã hội là "sai lệch về mặt khoa học", do chúng ta ngày càng hiểu biết nhiều hơn về một chuỗi các đặc điểm lưỡng hình (từ của Money là "lưỡng cực") liên kết các sự khác biệt về mặt sinh học và trong hành vi. Các đặc điểm này kéo dài từ sự khác biệt sinh học về "di truyền" và "nội tiết tố tiền sản" giữa nam và nữ, đến các đặc điểm "hậu sản", một số trong đó mang tính xã hội, nhưng một số khác đã được chứng minh là do hiệu ứng "nội tiết tố hậu tuổi dậy thì".

Mặc dù mối quan hệ nhân quả từ sinh học - bao gồm cả di truyền và nội tiết tố - đến hành vi đã được chứng minh và chấp nhận rộng rãi, Money cũng cẩn thận lưu ý rằng sự hiểu biết về các chuỗi nhân quả từ sinh học đến hành vi trong giới tính và các vấn đề giới vẫn còn rất nhiều thiếu sót. Một ví dụ cho việc này là việc sự tồn tại của một "gen đồng tính" chưa được chứng minh, nhưng chúng ta hiện vẫn thừa nhận khả năng tồn tại của nó.

Có những nghiên cứu liên quan đến những phụ nữ mắc chứng tăng sản thượng thận bẩm sinh, dẫn đến sản xuất quá mức hormone sinh dục nam, androgen. Những phụ nữ này thường có ngoại hình bình thường như mọi phụ nữ (mặc dù gần như tất cả các bé gái bị tăng sản thượng thận bẩm sinh (Congenital adrenal hyperplasia - CAH) đều được phẫu thuật chỉnh sửa bộ phận sinh dục của họ). Tuy nhiên, mặc dù đã uống thuốc cân bằng hormon được cấp từ khi sinh, những phụ nữ này theo thống kê có xu hướng quan tâm đến các hoạt động theo truyền thống được cho là có liên quan đến nam giới hơn là các hoạt động của phụ nữ. Giáo sư tâm lý, nhà nghiên cứu CAH, Tiến sĩ Sheri Berenbaum cho rằng những khác biệt này là do sự tiếp xúc với nồng độ hormone sinh dục nam cao hơn trong tử cung.

Phép phân loại giới

Sự phân loại giới tính minh họa các thể loại đa dạng đã được nghiên cứu và báo cáo trong các tài liệu y khoa. Phân loại này được sắp xếp theo thứ tự thời gian ước tính của sự phát triển sinh học và xã hội trong chu kỳ sống của con người. Các giai đoạn trước mang tính chất sinh học thuần túy hơn, và giai đoạn sau mang tính xã hội cao hơn. Nguyên nhân được biết là có hoạt động từ nhiễm sắc thể đến tuyến sinh dục, và từ tuyến sinh dục đến nội tiết tố. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng từ cấu trúc não đến bản dạng giới (tham khảo phần trích dẫn Money ở trên). Cấu trúc não và quá trình xử lý (sinh học) có thể giải thích sở thích gợi dục (xã hội), dẫu vậy, vẫn còn là một lĩnh vực đang được nghiên cứu. Thuật ngữ trong một số lĩnh vực thay đổi khá nhanh khi mà kiến ​​thức ngày càng phát triển.

  • Nhiễm sắc thể: 46, XX (nữ di truyền); 46, XY (nam di truyền), 45, X (hội chứng Turner); 47, XXY (hội chứng Klinefelter); 47, XYY (hội chứng XYY); 47, XXX (hội chứng XXX); 48, XXYY (hội chứng XXYY); Khảm 46, XX / XY; thể khảm khác;
  • Tuyến sinh dục: tinh hoàn; buồng trứng; các mô buồng trứng và tinh hoàn, không ở cùng tuyến sinh dục (lưỡng tính thực sự), buồng trứng, hoặc rối loạn phát sinh tuyến sinh dục khác;
  • Nội tiết tố (hormone): các nội tiết tố nam androgen (bao gồm testosterone, dihydrotestosterone, v.v.), các nội tiết tố nữ estrogen (bao gồm estradiol, estriol, v.v.), antiandrogen, progestogen, và những loại khác;
  • Các đặc điểm sinh dục chính: bộ phận sinh dục
  • Các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp: các đặc điểm cơ thể lưỡng hình, ngoài các đặc điểm chính (như lông trên cơ thể, sự phát triển của vú); những thay đổi nhất định trong cấu trúc não do tác động tổ chức của hormon giới tính.
  • Bản dạng giới: ý thức của một người về bản thân là một người nam, nữ hoặc không theo tiêu chuẩn về giới;
  • Biểu hiện giới: cách thể hiện và hành vi thể hiện các khía cạnh của bản dạng giới hoặc vai trò giới

Lưỡng hình giới tính

nhỏ|Sự phân biệt về giới tính ở [[Công|chim công]] Thế giới sống được tổ chức theo nguyên tắc thứ bậc chặt chẽ: hạt nhân → nguyên tử → phân tử → bào quan → tế bào → mô → cơ quan →  cơ thể → quần thể → quần xã → hệ sinh thái → sinh quyển. Sinh sản hữu tính, theo định nghĩa, diễn ra tại cấp tổ chức tế bào. Tuy nhiên, các đặc tính tối quan trọng của sinh sản hữu tính lại vận hành ngay trong chính các thành phần cấu thành giao tử, ở các cấp tổ chức thấp hơn - nguyên tử, phân tử, bào quan. Đáng chú ý, các giao tử mang các đoạn nguyên tử rất dài gọi là DNA. Đối với các quy trình sinh học của sinh sản, DNA tương đương như các quyển sách hướng dẫn mà các quy trình này có thể "đọc". Trên thực tế, thông thường, có rất nhiều "các quyển sách" đặc biệt như trên; chúng chính là các nhiễm sắc thể. Giao tử ở người đa phần sẽ có 23 nhiễm sắc thể, 22 trong số đó giống nhau ở cả hai giới. Nhiễm sắc thể cuối cùng trong giao tử của nam giới và nữ giới được gọi là nhiễm sắc thể giới tính - dựa trên vai trò của chúng trong việc xác định giới tính. Trong khi nhiễm sắc thể giới tính trong các trứng (noãn) luôn là nhiễm sắc thể có nhãn X, một nửa tinh trùng ở thể hoạt động cũng mang nhiễm sắc thể X này, nửa còn lại có nhiễm sắc thể Y. Khi quá trình thụ tinh diễn ra, hai giao tử hợp lại với nhau, hình thành nên 1 tế bào với các đặc điểm: thường có 46 nhiễm sắc thể, mang giới tính nam hoặc nữ (phụ thuộc vào tình trùng mang nhiễm sắc thể giới tính X hay Y). Các khả năng, trường hợp khác đã được liệt kê ở mục phía trên.

Các gen chỉ nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X và Y được gọi là gen liên kết giới tính. Ví dụ, các gen hình thành nên các tế bào cảm quang trên võng mạc đối với ánh sáng màu xanh lá và màu đỏ chỉ được tìm thấy trên nhiễm sắc thể X. Alen là 1 (trong 2 hoặc nhiều hơn 2) phiên bản của 1 gen cụ thể; ở mỗi gen, cá nhân sẽ được di truyền 2 alen, 1 từ bố và 1 từ mẹ.Cặp protein PCDH11X và PCDH11Y, tạo thành từ cặp gen tương ứng PCDH11X Tình trạng mù màu đỏ - xanh được xác định bởi alen lặn của gen vừa được đề cập ở trên. Thông thường, tính trạng do alen lặn quy định chỉ biểu hiện khi cá nhân được di truyền hai alen lặn của cùng 1 gen. Tuy nhiên, nam giới chỉ có 1 nhiễm sắc thể X từ người mẹ. Nếu nhiễm sắc thể  X đó mang alen gây nên tình trạng mù màu đỏ - xanh; cá nhân đó sẽ bị mù màu đỏ xanh. Trong khi đó, nữ giới có 2 nhiễm sắc thể X, 1 từ người bố và 1 từ người mẹ; do đó, cả hai nhiễm sắc thể X đều phải mang alen lặn thì cá nhân mới mắc phải tình trạng mù màu xanh - đỏ. Vì vậy, tình trạng mù màu đỏ - xanh là một tính trạng lặn liên kết với X và phổ biến hơn hẳn ở đàn ông. Tuy nhiên, ở trên các nhiễm sắc thể thường, các gen giới hạn theo giới tính được hướng dẫn để biểu hiện ra tính trạng - ví dụ, "Nếu ở trong cơ thể nam giới, gen hãy biểu hiện ra tính trạng X. Nếu không, không biểu hiện".

Hệ thống XY của con người không phải là hệ thống định giới tính duy nhất. Tiêu biểu là lớp Chim với hệ thống định giới tính trái ngược với chúng ta, hệ thống ZW - con trống là ZZ và con mái là ZW. Không phải với loài chim nào cũng có thể xác định được liệu con trống hay con mái sẽ ảnh hưởng đến giới tính của chim non. Ngoài ra, nhiều loài bướm được biết đến về việc con cái quyết định giới tính của con.

Thú mỏ vịt có hệ thống định giới tính kết hợp phức tạp; con đực có 10 nhiễm sắc thể giới tính, một nửa là nhiễm sắc thể X và nửa còn lại là nhiễm sắc thể Y.

Não bộ con người

nhỏ|[[Não người|Não bộ con người]] "Đại não của đàn ông đã được chứng minh là có kích thước lớn hơn của phụ nữ khoảng 8 - 10% (Filipek và cộng sự, 1994; Nopoulos và cộng sự, 2000; Passe và cộng sự, 1997a,b; Rabinowicz và cộng sự, 1999; Witelson và cộng sự, 1995)". Tuy nhiên, những khác biệt về thành phần cấu tạo và hệ thống thần kinh của não bộ giữa hai giới mới thật sự đáng lưu tâm. Richard J. Haier và các đồng nghiệp từ 2 trường đại học California (Irvine) và New Mexico, thông qua phương pháp Lập Bản Đồ Não Bộ, đã phát hiện đàn ông có nhiều chất xám - thành phần có liên quan đến trí thông minh tổng quát - hơn phụ nữ, và phụ nữ có nhiều chất trắng - thành phần liên quan đến trí thông minh - hơn đàn ông. Ngoài ra, tỉ lệ giữa chất xám và chất trắng của đàn ông cũng cao hơn phụ nữ 4%. Ví dụ, cả đàn ông và phụ nữ đều học và sử dụng ngôn ngữ; tuy nhiên, trên phương diện hóa sinh, chúng dường như xử lý nó theo cách khác. Các khác biệt giữa việc sử dụng ngôn ngữ của đàn ông và phụ nữ dường như là phản ảnh của các thiên hướng năng khiếu sinh học, cũng như là các ví dụ, kinh nghiệm đã được học.

Testosterone tác động lên nhiều cơ quan trong cơ thể, bao gồm nhân lưỡng hình giới tính của khu vực trước giao thoa thị giác của não bộ với nhân Onuf trong tủy sống, nhằm hình thành các tính trạng đã được nam tính hoá.

Các nghiên cứu về giới

Nghiên cứu về giới là một bộ môn liên ngành, cũng như là một ngành học thuật luôn đặt giới, bản dạng giới và đại diện giới làm trọng tâm phân tích. Lĩnh vực này bao hàm Các nghiên cứu về Phụ nữ (quan tâm đến các vấn đề: phụ nữ, Sự nữ tính, Vai trò giới, Phụ nữ - Chính trị), các nghiên cứu về Đàn ông (quan tâm đến các vấn đề: Đàn ông, Sự nam tính, Vai trò giới, và Đàn ông - Chính trị) và các nghiên cứu về Cộng đồng LGBT. Đôi lúc, nghiên cứu về giới sẽ song hành cùng nghiên cứu về tính dục. Các bộ môn học thuật này sẽ tìm hiểu, nghiên cứu về giới và tính dục trong Văn học và Ngôn ngữ, Lịch sử, Chính trị học, Xã hội học, Nhân học, Điện ảnh và Truyền thông, Sự phát triển của nhân loại, Luật pháp và Y học. Nghiên cứu giới cũng phân tích các vấn đề Chủng tộc, Sắc tộc, Khu vực, Quốc tịch và các Khuyết tật.

Tâm lý học và xã hội học

Nhiều hành vi phức tạp của con người chịu tác động từ cả các nhân tố bẩm sinh lẫn các yếu tố môi trường, có thể kể đến tất cả các tác nhân liên quan đến gen, biểu hiện gen, các chất hoá học của cơ thể, cũng như chế độ ăn và áp lực từ xã hội. Một mảng lớn nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học hành vi thu thập các dẫn chứng trong nỗ lực tìm ra sự tương quan giữa hành vi và tập hợp nhiều nhân tố khác nhau có khả năng là tiền đề của hành vi - di truyền học, quá trình kiểm soát biểu hiện gen, nguồn thực phẩm và vitamin, văn hoá, giới, hormone, sự phát triển thể chất và xã hội, và môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội.

Cách thức tự vận hành của hành vi con người, hay nói cách khác, làm thế nào hành vi của một tập thể hay một cá nhân có thể tác động đến hành vi của một tập thể hay một cá nhân khác, là một trong những đề tài nghiên cứu nòng cốt của xã hội học. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 20, phong trào xã hội nữ quyền đã góp phần mở rộng, phát triển các nghiên cứu và lý thuyết về giới thuộc nhiều lĩnh vực học thuật - nổi bật có các nghiên cứu thuộc ngành xã hội học. nhỏ|300x300px|Tình cảnh tuyệt vọng của Tây Ban Nha khi bị [[Napoléon Bonaparte|Napoléon xâm lược đã giúp cho Agustina de Aragón bước vào hàng ngũ sĩ quan chuyên nghiệp quân đội Tây Ban Nha, chức vụ vốn được quy định nghiêm ngặt chỉ dành cho đàn ông. Bà là trường hợp ngoại lệ duy nhất vào thời đại của mình (và kể cả rất nhiều năm sau đó).]] Các lý thuyết gia về xã hội đã tích cực tìm kiếm các bằng chứng nhằm xác định bản chất của giới trong mối tương quan với giới tính sinh học và tính dục. Kết quả đã tiết lộ giới hình thành dưới ảnh hưởng của xã hội và giới tính được sử dụng thay thế cho nhau trong nhiều trường hợp; điều này đồng nghĩa với việc giới tính 'sinh học' cụ thể - đặc tính khả biến - của một cá nhân lại được phân loại nằm trong khái niệm giới - đặc tính bất biến. Quan điểm của làn sóng nữ quyền lần thứ hai về giới vẫn hiện hữu trong các nhóm lý thuyết văn học - năm 2008, Kira Hall and Mary Bucholtz ra mắt góc nhìn mới về vấn đề này. Các lý thuyết của phong trào nữ quyền cho rằng giới được kiến thiết dưới tác động của xã hội, mà trong đó, tồn tại sự nam tính bá quyền - trong mối quan hệ, đàn ông duy trì vị thế thống trị của mình so với phụ nữ. Trong khi đó, phụ nữ buộc phải che giấu các cảm xúc thật sự của bản thân về hành vi tình dục của mình và đối phương. Ngoài sự gia trưởng, phụ nữ còn phải đối mặt với bạo lực tình dục. Các lý thuyết về xã hội hóa đương đại đã đề ra một ý niệm cho rằng trẻ em khi được sinh ra chỉ có giới tính sinh học, và không có giới - khái niệm liên quan đến xã hội. Trong quá trình trưởng thành của trẻ, "... xã hội cung cấp cho đứa trẻ một loạt các nguyên tắc, khuôn mẫu, hoặc mô hình về các hành vi phù hợp với một giới tính cụ thể hoặc với giới tính còn lại", điều này đã xã hội hoá đứa trẻ, đặt cá nhân đó vào một giới cụ thể mang ảnh hưởng từ xã hội. Trẻ em được thúc đẩy tham gia vào 2 quá trình: thứ nhất, chấp nhận sự xã hội hoá cùng với sự hình thành giới - nhân tố cấu thành các cơ hội của cá nhân về giáo dục, việc làm, gia đình, tính dục, sinh sản, quyền hạn; thứ hai, tạo nên sức ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng văn hoá và tri thức của xã hội. Vì vậy, các cá nhân trưởng thành không thể thực hiện các nhiệm vụ được quy định ở trên sẽ bị xem là lệch lạc và không được xã hội hoá đúng cách. Một số người tin rằng xã hội được kiến thiết thông qua việc giới được lưỡng phân thành hai nửa đối lập bởi các tổ chức xã hội đã liên tục tạo ra và sao lại các hình tượng văn hoá về giới. Khi một tổ chức bị phân giới nghĩa là khi các cặp phạm trù tồn tại trong tổ chức đó: lợi thế - bất lợi, sự khai thác - sự kiểm soát, hành động - cảm xúc, nội hàm - ngoại diên, bị tác động và liên quan tới sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ, giữa nam tính và nữ tính. Joan Acker tin rằng sự phân giới diễn ra, tối thiểu, tại 5 quá trình tương tác xã hội:

  • Quá trình xây dựng các sự phân chia, giống với giới, được tạo nên bởi thị trường lao động, quyền lực, gia đình, nhà nước, thậm chí là các hành vi được cho phép, và vị trí của cá nhân trong không gian vật lý
  • Quá trình xây dựng các biểu tượng và hình tượng, ví dụ như ngôn ngữ, hệ tư tưởng, tác phong ăn mặc, và truyền thông; các biểu tượng, hình tượng này giải thích, biểu diễn, và củng cố, hoặc đôi khi chống lại các sự phân chia trên
  • Tương tác giữa đàn ông và phụ nữ, giữa phụ nữ và phụ nữ, giữa đàn ông và đàn ông mà có tồn tại sự lấn át cũng như sự khuất phục. Các lý thuyết gia về hội thoại, ví dụ, đã nghiên cứu về hiện tượng tái xuất hiện sự bất bình đẳng giới trong các cuộc trò chuyện thông thường thông qua sự chen ngang, lượt đối thoại, và bối cảnh chủ đề từ những người tham gia cuộc đối thoại
  • Thông qua việc tạo ra và duy trì các hình tượng đặc trưng ứng với một giới nào đó, ba quá trình trên đã góp phần hình thành các nhân tố về giới trong bản dạng của một cá nhân
  • Trong các tiến trình hoạch định và hình thành nên cấu trúc xã hội, được mô tả là mang tính nền tảng và vẫn đang tiến triển, có sự hiện hữu của giới.

Nhìn nhận về giới thông qua lăng kính của phép phân tích diễn ngôn Foucault, giới tựa như phương tiện của sự phân chia quyền lực của xã hội. Khác biệt giới chỉ là sản phẩm của xã hội, và được dùng để củng cố sự khác biệt được cho là giữa nam giới và nữ giới cũng như tạo điều kiện cho sự nam tính áp đảo sự nữ thông qua các đặc tính cố hữu của các giới. "Quan niệm cho rằng sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ là lớn nhất, hơn cả sự khác biệt giữa những người cùng giới, hơn cả những mối liên hệ khác, ắt phải bắt nguồn từ điều gì đó khác với bản chất tự nhiên… hoàn toàn không phải là biểu hiện của các khác biệt tự nhiên, bản dạng giới độc nhất của cá nhân đặt dấu chấm hết cho các tương đồng tự nhiên".

Chuẩn mực về giới tích cực nhấn mạnh các đặc tính nam tính hay nữ tính đều xuất phát từ giới tính sinh học nền tảng. Các quy tắc và chuẩn mực văn hoá xã hội - luật lệ giúp xã hội vận hành, vừa là sản phẩm của xã hội vừa là nhân tố cấu thành xã hội - cũng quy các tính chất cụ thể trên về giới tính sinh học. Các đặc tính này cung cấp nền tảng cho sự hình thành nên các khác biệt giới nổi trội. Do vậy, giới có thể được cho là kết quả của tiến trình tiếp thu, đạt được các chuẩn mực xã hội của một người. Các cá nhân, vì thế, sẽ hòa nhập vào xã hội thông qua việc thực hành các kỳ vọng của xã hội mà bản thân đã tiếp thu về các phẩm chất "được chấp nhận" đối với giới của mình; các phẩm chất "được kỳ vọng" này được biểu hiện trong các thể chế xã hội như gia đình, quốc gia, hay truyền thông. Ý niệm về giới sẽ dần thâm nhập và trở thành một phần trong ý thức về bản thân hay bản dạng của một cá nhân; điều này thiết lập hiệu quả phân loại xã hội về giới trên một cơ thể với giới tính sinh học. Bà cũng bày tỏ quan điểm cá nhân sinh ra là nam giới hay nữ giới không hề quyết định hành vi của người đó; thay vào đó, mọi người học cách cư xử theo sao cho phù hợp và hoà nhập với xã hội. Vì vậy, giới là sự thể hiện, biểu hiện. Nếu giới được bộc lộ ra ngoài trong tác phong lặp đi lặp lại nhiều lần thì nó sẽ dần được sao lại, tái tạo lại, và hoà vào ý thức xã hội. Xã hội học đương đại đề cập đến vai trò giới của nam và nữ thường sử dụng các tính namcác tính nữ, sử dụng số nhiều thay vì số ít, nhằm trân trọng tính đa dạng trong sự nam tính và nữ tính cả trong mỗi nền văn hoá riêng biệt lẫn giữa các nền văn hoá với nhau.

Khái niệm về giới của ngành Xã hội học và khái niệm phổ biến về giới có phần khác biệt do hai bên phân tích các cặp lưỡng cực khác nhau cũng như tập trung vào các yếu tố khác nhau biệt. Ví dụ, cách tiếp cận "giới" (vai trò xã hội: nữ giới và nam giới) của xã hội học tập trung vào khác biệt (kinh tế/quyền lực) ở địa vị xã hội giữa nam CEO (bất kể người đó là dị tính luyến ái hay đồng tính luyến ái) đến các nữ công nhân trong doanh nghiệp của anh ta (bất kể họ thẳng hay đồng tính). Tuy nhiên, phương cách tiếp cận sự tự nhận thức tính dục phổ biến lại (sự tự nhận thức: đồng tính và dị tính) lại tập trung vào sự tự nhận thức bản thân và nhận thức xã hội khác biệt của những người là đồng tính hoặc dị tính, so với các cá nhân dị tính (bất kể có thể xảy ra các khác biệt lớn về địa vị xã hội lẫn nguồn lực kinh tế giữa hai nhóm nam giới và nữ giới trong mỗi ngành nghề). Do vậy, liên quan đến khái niệm và các cách tiệp cận về "giới", tồn tại sự đối đầu giữa xã hội học về đấu tranh nữ quyền mang giá trị lịch sử và xã hội học về đồng tính luyến ái đương đại.

Địa vị pháp lý

Giới tính của một người, nam giới hoặc nữ giới, có tầm quan trọng về pháp lý— giới tính được viết trên các tài liệu hành chính nhà nước, và luật pháp cũng có điểm khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ. Các hệ thống hưu trí quy định độ tuổi nghỉ hưu của đàn ông và phụ nữ khác nhau. Hôn nhân thường chỉ hợp pháp đối với các cặp đôi khác giới; tuy nhiên, một số quốc gia và khu vực thuộc quyền tài phán đã ban hành các điều luật về hôn nhân đồng giới.

Câu hỏi, liệu đâu là căn cứ pháp lý giúp ta xác định một người là nam giới hay nữ giới, được đặt ra. Trong đa số các trường h

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).|thế= nhỏ|Biểu tượng của phi nhị giới. **Giới tính xã hội**
thumb|Những con [[sói xám đang bao vây tấn công con bò bison Mỹ.]] **Tính xã hội** là mức độ mà các cá thể trong một quần thể động vật có khuynh hướng liên kết thành
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
nhỏ|phải|Một người thổi kèn túi ở [[Scotland trong đồng phục quân sự của bộ tộc. Ở nhiều nước phương Tây, nam giới mặc váy là một thể hiện giới tính không chấp nhận được, nhưng
nhỏ|Cờ của cộng đồng người liên giới tính. _Liên giới tính_ hay _Lưỡng tính_ (Tiếng Anh: **Intersex**) là thuật ngữ chỉ những người có những đặc điểm giới tính (bao gồm bộ phận sinh dục,
**Quan hệ xã hội nam nữ** mô tả các mối quan hệ xã hội với những người khác giới hay sự ưu tiên dành cho những mối quan hệ đó, thường loại trừ những mối
Xác định **giới tính vận động viên** trong thể thao được xem là một vấn đề phức tạp và trong thực tế đã xảy ra tranh cãi về những trường hợp vận động viên đoạt
**Chỉ định giới tính** (tiếng Anh: **Sex assignment** hoặc **Biological sex**), hay còn được gọi là **Chỉ định giới** (tiếng Anh: **Gender assignment**) là hình thức xác định giới tính cho trẻ em sau khi
**Thể hiện bản thân theo giới tính** hay là **gender expression** là sự tự do thể hiện cá tính, hành động, phong thái và con người vốn có của mình theo giới tính xã hội,
Trong thống kê giới tính ở sinh vật, **tỷ số giới tính** là thương số giữa số lượng giống đực (nam giới khi nói về dân số của người) và số lượng giống cái (nữ
Đây là danh sách các nước và vùng lãnh thổ theo tỷ lệ giới tính. Tỷ lệ giới tính của vùng là số nam giới cho mỗi phụ nữ trong dân số. ## Danh sách
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
nhỏ|Cờ của cộng đồng người Phi nhị nguyên giới|thế= nhỏ|Cờ của cộng đồng người Đa dạng giới|thế= **Phi nhị nguyên giới**, hay còn được gọi là **phi nhị giới** (tiếng Anh: non-binary, hay được viết
**Xã hội** là một nhóm những cá nhân liên quan đến tương tác xã hội một cách thường xuyên, hoặc một nhóm xã hội lớn có chung lãnh thổ không gian hoặc xã hội, thường
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
**Hồ sơ xã hội** (tiếng Anh là Social profiling) là quá trình xây dựng hồ sơ người dùng bằng dữ liệu xã hội của người đó. Hồ sơ đề cập đến quá trình mà khoa
**Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Kosovo**, được gọi đơn giản là **Kosovo**, là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia thuộc Nam Tư (tỉnh còn lại
nhỏ|Marketing qua mạng xã hội. **Marketing qua mạng xã hội** hay còn gọi với thuật ngữ _social media marketing_, là hình thức thực hiện các hoạt động marketing trên mạng internet thông qua việc sử
**Trật tự xã hội** có hai nghĩa. Trong nghĩa thứ nhất, trật tự xã hội là một hệ thống các cơ cấu và thể chế xã hội cụ thể, ví dụ như trật tự xã
**Lịch sử xã hội**, thường được gọi là **lịch sử xã hội mới,** là một lĩnh vực lịch sử nhìn vào kinh nghiệm sống trong quá khứ. Trong "thời kỳ hoàng kim", đây là một
phải|nhỏ|230x230px| "Nhà nông nghiệp Tartar": Một nông dân Mông Cổ sử dụng một con bò để cày **Xã hội tiền công nghiệp** đề cập đến các thuộc tính xã hội và các hình thức tổ
**Phương tiện truyền thông mạng xã hội** (tiếng Anh: _social media_) là các ứng dụng hoặc chương trình được xây dựng dựa trên nền tảng Internet, nhằm tạo điều kiện cho việc tạo mới hoặc
**Dịch vụ mạng xã hội** (tiếng Anh: **social networking service** – **SNS**) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không
thumb|upright=1.3|_[[Venus with a Mirror_ (khoảng năm 1555), tác phẩm của Titian, vẽ nữ thần Aphrodite như một hiện thân của tính nữ.]] **Tính nữ** là một tập hợp các thuộc tính, hành vi và vai
Biểu tượng của sinh vật [[đực trong sinh học và nam giới, hình chiếc khiên và ngọn giáo. Đây cũng là biểu tượng của Sao Hỏa trong chiêm tinh học, của thần chiến tranh trong
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
phải|Một postcard đầu thế kỷ 20 đề cập tới vấn đề mang thai ngoài ý muốn. **Giáo dục giới tính** là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục,
**Hệ nhị nguyên giới**, hay **Hệ nhị phân giới** (tiếng Anh: **Gender binary**, hay **Gender binarism**, **Binarism** hoặc **Genderism**) là một hệ thống phân giới thành hai thái cực đối lập nhau, hoặc là nam,
**Khoa học và công nghệ luận** hay **khoa học, công nghệ và xã hội** (STS) là lĩnh vực nghiên cứu về tương tác qua lại giữa văn hóa, xã hội, chính trị với nghiên cứu
**Xã hội học** là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina** (, УРСР; УССР), viết tắt là **CHXHCNXV Ukraina** và còn gọi là **Ukraina Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên
Cảnh sinh hoạt của một gia đình **Xã hội hóa** là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học được định nghĩa là _một quá trình tương tác xã hội kéo dài
**Chủ nghĩa xã hội thị trường** là một kiểu hệ thống kinh tế trong đó nền kinh tế thị trường được điều khiển bởi một bộ máy kế hoạch hóa tập trung nhằm nâng cao
Biểu ngữ treo tại trụ sở Hiệp hội Quốc gia Mỹ phản đối việc trao cho phụ nữ quyền bầu cử. **Phân biệt giới tính** hay **kỳ thị giới tính** (tiếng Anh: _sexism_), là một
**Vốn giới tính** là một hình thức giá trị xã hội được thụ hưởng bởi một cá nhân, như một kết quả của hấp dẫn giới tính của mình. Như với các hình thức khác
thumb|[[Pew Research Center|Pew Global Attitudes Project 2019: Đồng tính luyến ái có nên được chấp nhận trong xã hội? Phần trăm người phản hồi trả lời rằng nên được chấp nhận: ]] **Thái độ xã
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
[[Tội ác|Tội phạm - một dạng hiển nhiên của lệch lạc.]] **Sự lệch lạc**, hay còn gọi là **Sự lầm lạc**, **Hành vi lệch lạc**, (tiếng Anh: _deviance_ hoặc _deviant behavior_) là một khái niệm
nhỏ|Chân dung ba thanh niên, hai người mặc trang phục thổ dân **Biến đổi xã hội** (tiếng Anh: _Social change_) là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội,
**Đảng Xã hội chủ nghĩa Mỹ** () là một đảng phái chính trị theo hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hoa Kỳ và một bộ phận ở Hoa Kỳ của Quốc tế xã
**Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường** (tiếng Anh: _Institute for Social, Economic and Environmental Research_ - **iSEE**) là một tổ chức thành lập năm 2007, có nội dung hoạt động là
**Tỉnh tự trị Xã hội chủ nghĩa Vojvodina** (; ) là một trong hai tỉnh tự trị của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia, thuộc Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam
**Hành vi xã hội** là hành vi giữa hai hoặc nhiều sinh vật trong cùng một loài và bao gồm bất kỳ hành vi nào trong đó một thành viên ảnh hưởng đến người khác.
**Xã hội thông tin** là một xã hội nơi việc sử dụng, sáng tạo, phân phối, thao túng và tích hợp thông tin là một hoạt động kinh tế, chính trị và văn hóa quan
**Xã hội dân sự** cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận
**Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam** (tên quốc tế: , **VASS**) là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học
**Ngôn ngữ học xã hộ**i (_Sociolinguistics_) là ngành học nghiên cứu ảnh hưởng của bất kỳ và tất cả các lĩnh vực xã hội, bao gồm các khái niệm văn hóa, kỳ vọng và ngữ
**Nghiên cứu về giới** (tiếng Anh: _Gender studies_) là một lĩnh vực học thuật liên ngành liên quan đến việc phân tích bản dạng giới và đại diện giới tính. Nghiên cứu về giới bắt