✨Môi trường và xu hướng tính dục

Môi trường và xu hướng tính dục

Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến quá trình hình thành xu hướng tính dục đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành xu hướng tính dục từng được chứng minh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cả hai yếu tố sinh học và yếu tố môi trường đều có những ảnh hưởng phức tạp đối với việc hình thành đồng tính, song tính. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đều khẳng định rằng có nhiều nguyên nhân hình thành nên xu hướng tính dục. Vài nhà khoa học xếp yếu tố hoócmôn bào thai là một dạng yếu tố môi trường.

Định hướng tính dục bên cạnh bản sắc định hướng tính dục của bản thân

Trung tâm cai nghiện và sức khỏe tâm thần Mỹ cho rằng, "Đối với một số người, khuynh hướng tình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời của họ. Đối với những người khác, khuynh hướng tình dục có thể mềm dẻo và thay đổi theo thời gian." Tuy vậy Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, lại cho rằng "Tìm kiếm định hướng tình dục của bản thân - chứ không phải định hướng tính dục - thường xuyên thay đổi thông qua liệu pháp tâm lý, các nhóm hỗ trợ, và các sự kiện trong cuộc sống". Thông thường, xu hướng tình dục và bản sắc khuynh hướng tình dục là không phân biệt, điều này có thể tác động đến việc đánh giá chính xác khuynh hướng tình dục và định hướng tình dục có thể thay đổi hay không; định hướng tình dục có thể thay đổi trong suốt cuộc đời của một cá nhân, và có thể hoặc có thể không phù hợp với giới tính sinh học, hành vi tình dục hoặc khuynh hướng tình dục thực sự. Học giả Lisa Diamond, khi xem xét nghiên cứu về xác định tình dục đồng tính nữ và lưỡng tính, nói rằng nghiên cứu cho thấy "thay đổi và tính mềm dẻo trong tình dục đồng giới mâu thuẫn với mô hình thông thường của khuynh hướng tình dục như một đặc điểm cố định và thống nhất được định hình từ giai đoạn đầu phát triển".

Không phù hợp giới tính thời thơ ấu

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng không phù hợp giới tính thời thơ ấu (childhood gender nonconformity) là yếu tố tiên đoán tốt nhất đồng tính luyến ái ở người lớn. Daryl Bem đề xuất rằng vài trẻ em thích các hoạt động tiêu biểu của giới tính đối lập. Các trẻ phù hợp giới tính cảm thấy khác với những trẻ có giới tính đối lập với mình trong khi những trẻ không phù hợp giới tính lại cảm thấy khác với những trẻ cùng giới tính với mình. Do đó trẻ có thể cảm thấy bị kích thích sinh lý khi gần người mà trẻ cho là "khác" với mình. Những kích thích sinh lý này sau đó sẽ chuyển thành ham muốn tình dục. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự không phù hợp giới tính từ nhỏ có thể là do kiểu gen, hoócmôn giai đoạn bào thai, cá tính, cách chăm sóc của cha mẹ và các yếu tố môi trường khác.

Peter Bearman chỉ ra rằng trẻ trai sinh đôi cùng với một trẻ gái có khả năng bị hấp dẫn cùng giới gấp hai lần trừ khi trẻ có thêm một người anh. Ông ta nói sự phát hiện này đã ủng hộ giả thuyết rằng hòa nhập theo giới tính (gender socialization) kém thời thơ ấu và thiếu niên sẽ hình thành sự ưa thích tình cảm đồng giới. Ông đề xuất rằng cha mẹ của những cặp sinh đôi nam nữ thường đối xử trung tính với chúng, song một người anh trai nếu có sẽ giúp hình thành cơ chế hòa nhập theo giới tính để người em trai bắt chước theo. Tuy nhiên, Bearman và Bruckner không tìm thấy bằng chứng trực tiếp về việc xã hội ảnh hưởng đến khuynh hướng lựa chọn giới tính tình dục. Trong thực tế, không có bằng chứng nào cho thấy liên kết xã hội hoá giới tính của cha mẹ ảnh hưởng đến khuynh hướng tình dục của con cái của họ Tỷ lệ thanh thiếu niên báo cáo có hấp dẫn với người đồng tính là cao hơn so với tỷ lệ báo cáo có kinh nghiệm tình dục đồng tính thực sự. Ngoài việc hấp dẫn giới tính, cơ hội quan hệ tình dục cũng cần thiết. Do cơ hội quan hệ tình dục phụ thuộc nhiều vào cấu trúc xã hội, ảnh hưởng xã hội được cho rằng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc cụ thể hóa hành vi tình dục hơn là hấp dẫn đồng tính đơn thuần. Họ cho rằng từ điều này có thể kết luận rằng yếu tố gia đình thời thơ ấu là nhân tố quan trọng của đồng tính luyến ái Michael Ruse cho rằng cả hai khả năng trên là đúng trong nhiều trường hợp khác nhau.

Theo một nghiên cứu đối với 275 người nam trong quân đội Đài Loan, Shu và Lung kết luận rằng "sự ít bảo bọc của người cha và sự quan tâm của người mẹ là nhân tố chính hình thành sự đồng tính ở nam giới". Những yếu tố chính hình thành đồng tính luyến ái là "sự ít gắn bó với người cha, cuộc sống nội tâm và đặc thù thần kinh". Một nghiên cứu báo cáo rằng người đồng tính nam sớm thân thiết với mẹ hơn những người đồng tính nữ. Một nghiên cứu năm 2000 đối với các cặp sinh đôi người Mỹ cho thấy yếu tố gia đình, ít nhất là một phần của kiểu gen, ảnh hưởng đến thiên hướng tình dục.

Có nghiên cứu cho thấy người đồng tính nam có nhiều đáng kể anh chị em hơn người đồng tính nữ. Người đồng tính nữ có nhiều đáng kể anh chị em hơn người nam dị tính. Một nghiên cứu năm 2006 ở Đan Mạch so sánh những người kết hôn đồng tính và những người kết hôn dị tính. Người kết hôn dị tính thường có cha mẹ trẻ, cha mẹ chênh lệch ít tuổi, có mối quan hệ ổn định với cha mẹ, large sibships và là em trong gia đình. Những người có cha mẹ ly hôn thường ít kết hôn dị tính hơn những người có cha mẹ hạnh phúc. Người nam kết hôn đồng tính thường có mẹ lớn tuổi, cha mẹ ly hôn, cha đi vắng hoặc là con út. Người nữ kết hôn đồng tính thường mồ côi mẹ ở tuổi thanh niên, là con một hay con út hoặc con gái duy nhất trong gia đình.

Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ có tỷ lệ quan hệ đồng tính cao hơn, cụ thể:

Mặt khác, trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em", 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường

Tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: "Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác."

Số lượng anh trai

Theo nhiều nhiên cứu, có thêm một người anh trai sẽ tăng khả năng là đồng tính lên 28%–48%. Hiệu ứng anh trai chiếm khoảng 1/7 trong số người đồng tính nam. Không có sự tương quan giữa số chị gái và sự đồng tính của một người nữ.

Môi trường văn hóa, xã hội

Tổ chức tình dục xã hội (Social Organization of Sexuality) ở Hoa Kỳ phát hiện đồng tính luyến ái có tương quan với sự đô thị hóa của nơi ở của đối tượng lúc 14 tuổi. Sự tương quan ở nam cao hơn ở nữ. Các tác giả giả thuyết rằng "Ở các thành phố lớn có một môi trường thông cảm đối với sự hình thành và thể hiện mối quan hệ đồng tính".

Ở Đan Mạch, người sinh ra ở khu vực thủ đô có khả năng kết hôn dị tính thấp hơn và khả năng kết hôn đồng tính cao hơn người đồng trang lứa ở thôn quê.

Khuôn mẫu tình dục của mỗi cá nhân là một sản phẩm của văn hóa xã hội. Những xã hội có xu hướng chấp nhận đồng tính thì sẽ có nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn. Tại Mỹ, đã có sự gia tăng số phụ nữ cảm thấy thu hút đồng tính. Nhà nghiên cứu Binnie Klein cho rằng "rõ ràng là một sự thay đổi trong xu hướng tình dục trong tâm trí nhiều người hơn hơn bao giờ hết, và có nhiều cơ hội hơn - và sự chấp nhận - để vượt qua làn ranh (về giới tính)" Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), cho biết: cùng với phong trào ủng hộ đồng tính lên cao, từ năm 1994, số người công khai là đồng tính nam (ở Mỹ) đã tăng 18%, và số lượng người công khai là đồng tính nữ còn tăng tới 157%.

Chấn thương tâm lý

Việc bị chấn thương tâm lý do bị lạm dụng tình dục cũng là một yếu tố. Một nghiên cứu trong Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ phát hiện ra rằng "vị thành niên bị lạm dụng tình dục, đặc biệt là nam giới, có khả năng tự nhận mình là người đồng tính hay song tính cao gấp 7 lần so với những người không bị lạm dụng" Một nghiên cứu khác cho thấy rằng "46% nam đồng tính so với 7% của nam dị tính báo cáo rằng đã bị lạm dụng tình dục. Con số này tương ứng là 20% trong số đồng tính nữ so với 1% ở nữ dị tính"."

Sigmund Freud và các nhà tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố, trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến sĩ tâm lý học nổi tiếng người Tây Ban Nha là Enrique Rojas thì cho rằng: 95% nguyên nhân dẫn tới đồng tính là do các yếu tố môi trường như sự thiếu vắng quan tâm của người cha, người mẹ hung dữ hoặc bị lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Yếu tố môi trường** ảnh hưởng đến quá trình hình thành **xu hướng tính dục** đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành xu hướng
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**Sự tương quan giữa số lượng anh trai và xu hướng tính dục** đã được đề xuất trong những nghiên cứu gần đây. Ray Blanchard đã phát hiện ra sự tương quan này và gọi
Xu hướng tính dục là một sự hấp dẫn lâu dài về tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) đối với những người cùng giới hoặc giới tính khác, hoặc với cả hai giới
Mối quan hệ giữa **sự thuận tay** và **xu hướng tính dục** đã xuất hiện trong một vài nghiên cứu khoa học, những nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người thuận tay phải
Giả thuyết về tính dục có liên quan đến nội tiết tố cho rằng, cũng như sự tiếp xúc với một số nội tiết tố đóng vai trò trong việc phát triển giới tính của
**Xu hướng tính dục** là một loại hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) một cách lâu dài đối với những người thuộc giới tính hoặc giới khác, thuộc cùng
**Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã** là một chẩn đoán sức khỏe tâm thần gây nhiều tranh cãi, được đưa vào _Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần_
**Công khai tính dục** (_coming out of the closet_, thường được nói ngắn gọn là **coming out**), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng
Có những khó khăn trong xác định **nhân khẩu học** **xu hướng tính dục** vì những lý do sau đây. Một trong những lý do chính làm cho kết quả của những thống kê số
**Thiên hướng lãng mạn**, gọi khác là xu hướng/khuynh hướng tình cảm/cảm xúc (tiếng Anh: _romantic orientation_, hay _affectional orientation_) là thuật ngữ dùng chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm bởi người khác
Lĩnh vực tâm lý học đã nghiên cứu sâu rộng về đồng tính luyến ái như một xu hướng tính dục của con người. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã đưa đồng tính luyến
thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người **Tính dục ở loài người** là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
thumb|_[[Sappho và Erinna trong khu vườn ở Mytilene_ bởi Simeon Solomon, 1864]] thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nữ được tạo nên từ hai [[biểu tượng thiên văn của sao Kim lồng vào
nhỏ|Cờ của cộng đồng người Androphilie/Androsexual nhỏ|Cờ của cộng đồng người Gynephilie/Gynesexual **Sự hấp dẫn với tính nam và sự hấp dẫn với tính nữ** là những thuật ngữ được sử dụng trong khoa học
nhỏ|_Sự tán tỉnh_, tranh của [[Eugene de Blaas.]] **Hấp dẫn tình dục** là sự hấp dẫn dựa trên thèm muốn tình dục hoặc khả năng khơi dậy những ham muốn đó. Sức hấp dẫn tình
thumb|right|Hai người đồng tính nam hôn nhau trong một buổi diễu hành đồng tính. thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nam được tạo nên từ hai biểu tượng của [[sao Hỏa lồng vào
**Song tính luyến ái** (tiếng Anh: **Bisexuality**) chỉ sự hấp dẫn hoặc hành vi tình cảm hoặc tình dục với giới nam và nữ hoặc nhiều hơn một giới. "Song tính" cũng có thể được
Trước đây, các tài liệu cho rằng **tính dục của người chuyển giới** (tiếng Anh: transgender sexuality) tách biệt với khái niệm tính dục truyền thống. Trong hầu hết thế kỷ 20, khái niệm này
**Tính dục nữ của con người** bao gồm một loạt các hành vi và quá trình, trong đó có: xu hướng tính dục và hành vi tình dục của nữ, các khía cạnh sinh lý,
**Tính dục nam ở người** bao gồm nhiều loại cảm xúc và hành vi. Cảm giác bị thu hút (bởi ai và giới nào) của người nam có thể bắt nguồn từ đặc điểm thể
Nhóm **thiểu số tính dục** (_tiếng Anh_: sexual minority) là một nhóm người có bản dạng, xu hướng tính dục hay hoạt động tình dục không tương đồng với đa số mọi người trong xã
thumb|Mô tả tình dục hậu môn **Tình dục hậu môn,** (tiếng Anh: _anal sex_) hay còn gọi là **giao hợp hậu môn** (_anal intercourse_), **giang giao** hoặc **kê gian**, thường chỉ hành vi tình dục
nhỏ|phải|Bò rừng Bizon từng được ghi nhận là có quan hệ đồng tính nhỏ|phải|[[Cừu nhà là loài động vật duy nhất (trừ loài người) có những cá thể đực chỉ giao phối đồng tính trong
nhỏ|Lá cờ nhằm đại diện cho phổ vô tính **Bán vô tính**, hay còn được gọi là **Bán tính** (tiếng Anh: **Gray-asexuality** hoặc **Graysexuality**, hay **Greysexuality, Grey-asexuality**) là một xu hướng tính dục nằm trong
nhỏ| Ảnh khiêu dâm của [[Hadrianus|Hadrian và Antinous vào thế kỉ 19, bởi Paul Avril]] **Hoạt động tình dục đồng tính nam** là các hoạt động tình dục giữa hai người nam, bất kể xu
**Thuyết ngoại di truyền về đồng tính** là các nghiên cứu về những thay đổi trong biểu hiện gen hoặc kiểu hình tế bào gây ra bởi các cơ chế khác ngoài những thay đổi
nhỏ|phải|Những nhà tranh đấu nữ quyền ở Ukraina nhỏ|phải|Tranh đấu nữ quyền ở Paris **Nữ quyền tình dục** (_Sex-positive feminism_/_Sex-radical feminism_) là một phong trào tranh đấu cho nữ quyền tập trung vào ý tưởng
nhỏ|220x220px|Cờ của cộng đồng người Pansexual nhỏ|Cờ của cộng đồng người Omnisexual **Toàn tính luyến ái** (tiếng Anh: **Pansexuality** và **Omnisexuality**) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới
**Quy hoạch môi trường** là quá trình tạo cơ sở cho việc ra quyết định để thực hiện phát triển đất đai cùng với việc xem xét các yếu tố quản trị về môi trường,
Hai con sư tử đang giao cấu ở [[Maasai Mara, Kenya]] phải|nhỏ| "Sự giao hợp giữa nam và nữ" (tranh [[Leonardo da Vinci vẽ khoảng 1492), mô tả những gì xảy ra bên trong cơ
**Lạm dụng tình dục trẻ em**, còn gọi là **ấu dâm**, là quá trình trong đó một người trưởng thành lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cưỡng ép trẻ em tham
**Danh sách các vụ vi phạm về môi trường Việt Nam 2016** ghi lại những vụ vi phạm về môi trường ở Việt Nam được báo chí đưa tin trong năm 2016. Dẫn chứng từ
**Nghệ thuật môi trường** là một loạt những hoạt động nghệ thuật từ cách tiếp cận tự nhiên trước kia cho đến các tác phẩm có động cơ sinh thái và chính trị gần đây.
nhỏ|Chu kỳ đáp ứng tình dục điển hình **Chu kỳ đáp ứng tình dục của con người** là một mô hình bốn giai đoạn của các phản ứng sinh lý đối với kích thích tình
**Lạm dụng tình dục** là hành vi mang tính lạm dụng của người này đối với người khác. Nó thường được thực hiện bằng cách sử dụng vũ lực hoặc bằng cách lợi dụng người
nhỏ|Ô nhiễm không khí từ các nhà máy trong thời kỳ [[Chiến tranh thế giới thứ hai|chiến tranh thế giới lần 2]]**Ô nhiễm môi trường** là hiện tượng môi trường tự nhiên bị ô nhiễm
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
nhỏ|250x250px| Mức tiêu thụ năng lượng sơ cấp theo các loại năng lượng phổ biến. nhỏ|250x250px| Tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người trên một quốc gia (2001). Màu đỏ cho thấy sự gia
Trong bài giảng đầu tiên của Đức Phật, Ngài đã xác định ái (_taṇhā_) là nguyên nhân của khổ (_duḥkha_). Sau đó, Ngài đã xác định 3 đối tượng của ái: dục ái (_kāma-taṇhā_), hữu
phải|nhỏ| Một phòng chứa nhiều thùng sơn. **Tác động của sơn đến môi trường** rất đa dạng. các vật liệu sơn và các quy trình sơn truyền thống có thể gây nên các ảnh hưởng
nhỏ|phải|Một khu rừng nhỏ|phải|Khẩu hiệu tuyên truyền bảo vệ môi trường ở Tây Ninh **Bảo vệ môi trường** là việc bảo vệ môi trường tự nhiên của các cá nhân, tổ chức và chính phủ.
Sự gián đoạn trên toàn thế giới do Đại dịch COVID-19 tạo ra đã mang lại nhiều tác động tích cực đến môi trường và khí hậu. Việc giảm hoạt động của con người hiện
phải|nhỏ|Kinh tế và vốn tự nhiên cho nguồn nguyên liệu thô và nơi tẩy rửa cho các chất thải Một **doanh nghiệp môi trường** là doanh nghiệp thân thiện/phù hợp với môi trường. Cụ thể,
Hầu hết phụ nữ mang thai có thể tham gia vào các **hoạt động tình dục trong suốt thời kỳ mang thai**. ## Giảm ham muốn và tần suất tình dục Hầu hết các nghiên
thumb|Biểu tượng của giới thuộc hệ nhị phân. Trong đó, vòng tròn đỏ chỉ cho phái nữ (Venus), vòng tròn xanh chỉ phái nam (Mars).|thế= nhỏ|Biểu tượng của phi nhị giới. **Giới tính xã hội**
thế=One of the most famous depictions of Heracles, originally by Lysippos (marble, Roman copy called Hercules Farnese, 216 CE)|nhỏ|Trong thần thoại hy lạp, [[Heracles đại diện cho tính Nam tính của thần Apollo.]] **Nam tính**
nhỏ|351x351px|**Quyền LGBT ở Liên Hợp Quốc** Các cuộc thảo luận về **quyền LGBT ở Liên hợp quốc** bao gồm các nghị quyết và tuyên bố chung tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và Hội
thumb|Cặp đồng tính nữ và con của họ. Nhiều người đồng tính, song tính và chuyển giới có thể có con riêng với vợ/chồng cũ hoặc nhận con nuôi. Tuy nhiên, việc nhận con nuôi