✨LGBT
thumb|261x261px|[[Lá cờ cầu vồng (LGBT)|Lá cờ cầu vồng 6 màu đại diện cho LGBTQ+, tượng trưng sự đa dạng giới tính, sự đa dạng định giới và đa dạng xu hướng tính dục.]]
' hoặc ' là một từ viết tắt từ chữ đầu, thay thế cho cho Lesbian (đồng tính luyến ái nữ), Gay (đồng tính luyến ái nam), Bisexual (song tính luyến ái), Transgender (chuyển giới) và Queer (có xu hướng tính dục và bản dạng giới khác biệt, hoặc không nhận định mình theo bất kỳ nhãn nào) hoặc Questioning (đang trong giai đoạn tìm hiểu bản thân). Dấu cộng đại điện cho sự tồn tại đa dạng của các nhóm khác trong cộng đồng như: N là Non-binary (phi nhị nguyên giới), I Intersex (liên giới tính), A Asexual (vô tính luyến ái)...
LGBTQ+ thể hiện sự đa dạng của con người dựa trên xu hướng tính dục (sexual orientation), bản dạng giới (gender identity), thể hiện giới (gender expression) và thiên hướng tình dục (sexual attraction). Xu hướng tính dục có các nhóm phổ biến: dị tính luyến ái (heterosexual), đồng tính luyến ái (homosexual), song tính luyến ái (bisexual), toàn tính luyến ái (pansexual), vô tính luyến ái (asexual)... Theo bản dạng giới có thể có: nam, nữ, phi nhị nguyên giới, linh hoạt giới, vô giới... và người có bản dạng giới trái với giới tính chỉ định (sex assigned at birth) của mình là người chuyển giới, ngược lại người người có bản dạng giới phù hợp với giới tính chỉ định là người hợp giới (cisgender).
Lịch sử thuật ngữ
trái|nhỏ|[[Stonewall Inn|Quán bar Stonewall Inn ở làng cho người LGBT+ ở Làng Greenwich, Manhattan, địa điểm diễn ra cuộc bạo động Stonewall tháng 6 năm 1969, cái nôi của phong trào giành quyền LGBT+ thời nay và là một biểu tượng của văn hóa LGBT+, được trang trí bởi những lá cờ lục sắc.]] nhỏ|Các ấn phẩm LGBT+, [[Diễu hành đồng tính|diễu hành tự hào và những sự kiện liên quan như sân khấu này tại Bologna Pride 2008 ở Ý, thường xuyên sử dụng thuật ngữ LGBT thay vì thêm các chữ cái mới và giải quyết các vấn đề về vị trí của các chữ cái trong tiêu đề mới.]] nhỏ|Lá cờ kiểu mới được thiết kế bởi Daniel Quasar vào năm 2018 nhằm nâng cao nhận thức về những người queer da màu, người chuyển giới và những người đã mất mạng vì căn bệnh HIV/AIDS. Thuật ngữ LGBT bắt đầu được sử dụng từ những năm 1990, tên viết tắt này bắt nguồn từ LGB, được dùng để thay thế thuật ngữ gay do sự xuất hiện của cộng đồng LGBT+ vào nửa cuối thập niên 1980, khi những nhà hoạt động xã hội tin rằng cụm từ cộng đồng gay không đại diện chính xác và bao gồm những người mà nó nói đến.
Người đồng tính (homosexual), cụm từ được sử dụng rộng rãi đầu tiên giờ đây mang một hàm ý tiêu cực ở nước Mỹ. Sau đó, nó được thay thế bởi homophile vào những năm 1950 và 1960, và tiếp theo là gay vào những năm 1970; cụm từ gay được chấp nhận trước bởi cộng đồng người đồng tính.
Khi mà những người đồng tính nữ ngày càng tạo dựng được sự hiện diện, thì cụm từ "đồng tính nam (Gay) và đồng tính nữ (Lesbian)" cũng trở nên thông dụng hơn. Một cuộc tranh cãi về việc liệu mục tiêu chính trị của người đồng tính nữ nên là nữ quyền hay quyền của người đồng tính đã dẫn đến sự tan rã của một số tổ chức dành cho người đồng tính nữ, bao gồm Daughters of Bilitis, tan rã vào 1970, theo đó là tranh cãi về việc nên đặt vấn đề nào là ưu tiên hàng đầu trước. Khi mà sự bình đẳng là ưu tiên hàng đầu đối với những nhà nữ quyền đồng tính nữ, sự bất tương xứng vai vế giữa nam và nữ cũng như giữa butch (tính nam) và femme (tính nữ) bị coi là biểu hiện của chế độ phụ quyền. Các nhà nữ quyền đồng tính nữ đã né tránh vai trò về giới – thứ đang phổ biến ở các quán bar khi đó – cũng như "chủ nghĩa sô vanh" của những người đồng tính nam; nhiều nhà nữ quyền đồng tính nữ từ chối hợp tác với người đồng tính nam, hoặc đảm nhiệm sứ mệnh của họ.
Những người đồng tính nữ giữ quan điểm bản chất luận, rằng họ sinh ra đã là đồng tính luyến ái và sử dụng từ "đồng tính nữ" để định nghĩa sự hấp dẫn về tình dục, thường coi những ý kiến ly khai của những người theo chủ nghĩa nữ quyền là bất lợi cho bản chất quyền của người đồng tính. Những người song tính và chuyển giới cũng tìm kiếm sự công nhận là những nhóm chính thức trong cộng đồng thiểu số lớn hơn. Các nhà phê bình nói rằng những người chuyển giới thể hiện không đúng theo các khuôn mẫu về họ và những người song tính chỉ đơn giản là những người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ người e sợ phải công khai và thành thật về bản dạng của họ.
Từ khoảng năm 1988, các nhà hoạt động bắt đầu sử dụng thuật ngữ LGBT ở Hoa Kỳ. Mãi đến những năm 1990, trong phong trào này, người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới mới được tôn trọng một cách bình đẳng.
Mặc dù trên danh nghĩa, LGBT không bao gồm tất cả những từ viết tắt chỉ các cá nhân trong các cộng đồng nhỏ hơn (xem Các biến thể bên dưới), thuật ngữ này thường được chấp nhận để bao gồm những người không được xác định cụ thể trong nghĩa viết tắt của bốn chữ cái.
Vào năm 2016, Hướng dẫn tham khảo về phương tiện truyền thông của GLAAD tuyên bố rằng LGBTQ là thuật ngữ được ưa thích hơn, bởi vì nó bao gồm các thành viên trẻ của cộng đồng chấp nhận từ Queer là một từ tự mô tả bản thân. Tuy nhiên, một số người xem "Queer" là một thuật ngữ xúc phạm có nguồn gốc ngôn từ kích động thù địch và từ chối nó, đặc biệt là một số thành viên lớn tuổi.
Đến nay, có thêm nhiều chữ cái mới và vấn đề vị trí giữa các chữ cái vẫn chưa được giải quyết. Nên nhiều người thường dùng LGBT+ để biểu thị rằng cộng đồng còn bao gồm những nhóm khác.
Các biến thể của thuật ngữ
Tổng quan
nhỏ|[[Diễu hành đồng tính|Lễ diễu hành tự hào năm 2010 ở Plaza de Mayo, Buenos Aires, cái mà sử dụng thuật ngữ LGBTIQ.]] nhỏ|Mọi người tập trung ở [[Quảng trường Thượng viện, Helsinki|Quảng trường Senate, Helsinki, ngay trước khi lễ diễu hành Tự hào Helsinki 2011 diễn ra.]] Nhiều biến thể bao gồm các thuật ngữ thay đổi vị trí của cái chữ cái như LGBT hay GLBT là những thuật ngữ thông dụng nhất. Ở Anh, thuật ngữ được cách điệu thành LGB&T,, trong khi Đảng Xanh nước Anh và xứ Wales dùng thuật ngữ LGBTIQ trong các ấn phẩm và tuyên ngôn chính thức của mình.
Thứ tự của các chữ cái cũng không được tiêu chuẩn hóa, ngoài các biến thể giữa các chữ "L" hay "G", những chữ cái ít thông dụng hơn, nếu được sử dụng, thì có thể được đặt ở bất kỳ vị trí nào. Các thuật ngữ biến thể thường không tượng trưng cho sự khác biệt về quan điểm chính trị trong cộng đồng, mà thường chỉ đơn giản là nêu lên sự lựa chọn của các cá nhân và nhóm.
Các thuật ngữ như toàn tính (pansexual), omnisexual, fluid (linh hoạt) và queer-identified thường được xem như là những thuật ngữ con thuộc về thuật ngữ song tính (bisexual) (và vì vậy chúng được xem như là một phần của cộng đồng người song tính).
Một vài người dùng LGBT+ để nói về "LGBT và những cộng đồng có liên quan". Bên cạnh đó, thuật ngữ LGBTQIA cũng thường hay được sử dụng và ba chữ cái viết tắt thêm là "queer, liên giới tính (intersex), và vô tính (asexual)". Những biến thể khác có thể bao gồm chữ "U" (unsure) cho "không chắc chắn"; "C" (curious) cho "sự tò mò"; thêm một chữ "T" (transvestite) cho "người ăn mặc xuyên giới"; "TS", hoặc "2" cho "hai tâm hồn" (two-spirit); "SA" (strangiht allies) cho những "đồng minh dị tính". Tuy nhiên sự bao gồm đồng minh dị tính vào thuật ngữ LGBT đã dấy lên tranh cãi khi mà những người dị tính đã dùng phong trào LGBT để tăng sự nổi tiếng và địa vị trong những năm gần đây, và nhiều nhà hoạt động xã hội LGBT đã chỉ trích thế giới quan định chuẩn hóa dị tính của những người dị tính nhất định. Một vài người thêm chữ "P" (polyamorous) đa tính, chữ "H" cho "những người nhiễm HIV " hay "O" (other) khác. Còn thuật ngữ LGBTIH được sử dụng ở Ấn Độ để bao gồm hijra third gender những tiểu văn hóa có liên quan.
Thuật ngữ LGBTTQQIAAP (đồng tính nữ, đồng tính nam, người song tính, chuyển giới, transsexual, queer, khám phá tính dục, liên giới tính, vô tính, đồng minh, toàn tính cũng được tạo ra, nhưng gặp nhiều chỉ trích vì quá rắc rối, và không bao gồm một số nhóm thiểu số khác cũng như là vấn đề về vị trí của các chữ cái trong thuật ngữ mới. vì một số người xem sự bao gồm của "ally" thay thế cho "asexual" như là một cách xóa bỏ sự hiện diện của người vô tính. Ngoài ra, còn có thuật ngữ QUILTBAG (queer and questioning, unsure, intersex, lesbian, transgender and two-spirit, bisexual, asexual and aromantic, and gay and genderqueer).
Tương tự, LGBTIQA+ tượng trưng cho "đồng tính nữ, đồng tính nam, người song tính, chuyển giới, liên giới tính, queer/questioning, vô tính/vô ái/vô giới và nhiều cụm từ khác (như phi nhị giới và toàn tính)". Dấu cộng sau chữ "A" có thể chỉ một chữ A thứ hai tượng trưng cho đồng minh (allies).
Ở Canada, cộng đồng đôi khi được xác định là LGBTQ2 (Đồng tính nữ, Đồng tính nam, Song tính, Chuyển giới, Queer và Hai tâm hồn). Tùy thuộc vào từng tổ chức mà sự lựa chọn về chữ viết tắt sẽ khác nhau. Các doanh nghiệp và CBC thường sử dụng cụm từ LGBT làm đại diện cho bất kỳ từ viết tắt nào dài hơn, còn các nhóm hoạt động tư nhân thường sử dụng LGBTQ+, trong khi các nhà cung cấp dịch vụ y tế công cộng ưu tiên LGBT2Q+ để phù hợp với những người bản địa hai tâm hồn. Trong một khoảng thời gian, tổ chức Pride Toronto đã sử dụng từ viết tắt khá dài LGBTTIQQ2SA, nhưng dường như đã bỏ cụm từ này để dùng những cụm từ đơn giản hơn.
Sự bao gồm người chuyển giới
Cụm từ trans đã được tiếp nhận bởi một số nhóm như là một từ thay thế bao hàm cho "transgender" (chuyển giới), khi mà trans (không có dấu hoa thị) được sử dụng để mô tả người chuyển giới nam và người chuyển giới nữ, trong khi trans bao hàm tất cả những bản dạng phi hợp giới bao gồm người chuyển giới, transsexual (người chuyển giới muốn trị liệu định giới), ăn mặc xuyên giới, đa dạng giới, linh hoạt giới, phi nhị giới, genderfuck, genderless, vô giới, non-gendered, giới thứ ba, song linh, song giới, chuyển giới nam và chuyển giới nữ. Tương tự, cụm từ transsexual thường thuộc trong transgender, nhưng một số người transsexual phản đối điều này.
Sự bao gồm người liên giới tính
Mối quan hệ của người liên giới tính với các cộng đồng đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới, queer là rất phức tạp, nhưng những người liên giới tính thường được thêm vào danh mục LGBT để tạo ra một cộng đồng LGBTI. Một số người liên giới tính ưa thích thuật ngữ LGBTI hơn, trong khi những người khác lại muốn họ không được đưa vào như một phần của thuật ngữ này. Emi Koyama mô tả cách đưa người liên giới tính vào LGBTI có thể không giải quyết được các vấn đề nhân quyền cụ thể của người liên giới tính, bao gồm cả việc tạo ra ấn tượng sai lầm "rằng quyền của người liên giới tính được bảo vệ bởi luật bảo vệ người LGBT, và không thừa nhận rằng nhiều người liên giới tính không phải là LGBT. Tổ chức Intersex International Australia tuyên bố rằng một số cá nhân liên giới tính bị thu hút bởi những người cùng giới tính và một số người dị tính, nhưng "hoạt động LGBTI đã đấu tranh cho quyền của những người nằm ngoài hệ nhị phân giới tính và ngoài những chuẩn mực giới". Julius Kaggwa của SIPD Uganda đã viết rằng, trong khi cộng đồng người đồng tính" cung cấp cho chúng tôi một nơi an toàn tương đối, họ cũng không để ý đến/ không nhận biết được nhu cầu cụ thể của chúng tôi".
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ hấp dẫn đồng giới cao hơn ở những người liên giới tính, một nghiên cứu gần đây của Úc về những người sinh ra với các đặc điểm giới tính khác thường cho thấy 52% người được hỏi không phải là người dị tính, do đó nghiên cứu về đối tượng liên giới tính đã được sử dụng để khám phá các phương tiện ngăn ngừa đồng tính luyến ái. người liên giới tính có thể được phân biệt với người chuyển giới, trong khi một số người liên giới tính là cả liên giới tính và chuyển giới.
Sự chỉ trích về thuật ngữ
nhỏ|Các gia đình LGBT trong cuộc [[Diễu hành đồng tính|diễu hành Tự hào ở Boston vào năm 2007. Vì nhiều lí do, các nhà nghiên cứu đã gán nhãn họ là những người phi dị tính.]] Từ viết tắt LGBT hay GLBT không có được sự đồng thuận của mọi người vì chúng không bao gồm tất cả. Ví dụ, một vài người tranh luận rằng bản chất người chuyển giới thì không giống như là đồng tính nam, đồng tính nữ và người song tính (LGB). Tranh luận này xoay quanh vấn đề rằng là một người chuyển giới thì liên quan nhiều đến bản dạng giới hoặc sự hiểu biết của một người về việc là nam hay nữ, mà không kể đến xu hướng tính dục của họ. Những người theo chủ nghĩa ly khai mặc dù không phải lúc nào cũng có đủ số lượng để được xem là một phong trào nhưng họ là một nhân tố quan trọng, tích cực và thẳng thắn trong cộng đồng LGBT. Trong một số trường hợp những người theo chủ nghĩa ly khai sẽ chối bỏ sự tồn tại và quyền bình đẳng của những người song tính và chuyển đổi giới tính, Một số người không tán thành những chiến dịch đoàn kết chính trị xã hội, sự hiện diện và vận động nhân quyền, điều mà thường kèm theo nó là lễ diễu hành tự hào đồng tính. Trong cuốn sách Anti-Gay năm 1996, một tuyển tập các bài luận được chỉnh sửa bởi Mark Simpson, khái niệm bản dạng "một kích cỡ vừa tất cả" dựa trên những khuôn mẫu LGBT bị chỉ trích vì kìm hãm tính cá nhân của cộng đồng LGBT.
Viết trong tờ BBC News Magazine năm 2014, Julie Bindel tự hỏi rằng liệu các nhóm giới hiện nay có cùng nhau chia sẻ vấn đề và mục tiêu giống nhau? Bindel nói đến một vài cách viết tắt khác chỉ những sự kết hợp khác nhau và kết luận rằng đã đến lúc các liên minh phải được cải cách hoặc tách biệt hoàn toàn. Vào 2015, câu slogan "Hãy loại bỏ chữ T" được hình thành nhằm khuyến khích các tổ chức LGBT ngừng ủng hộ người chuyển giới; trong khi nhận được rất nhiều sự ủng hộ của một vài nhà nữ quyền cũng như là một số người chuyển giới, nhiều nhóm LGBT lên án chiến dịch này là kỳ thị người chuyển giới.
Những thuật ngữ thay thế
Nhiều người đã tìm kiếm một thuật ngữ chung để thay thế nhiều từ viết tắt đã có từ trước. Queer có nhiều hàm ý tiêu cực, đối với những người lớn tuổi nhớ từ này như một lời chế nhạo và xúc phạm, và cách sử dụng tương tự (một cách tiêu cực) khác đối với thuật ngữ này vẫn còn tiếp diễn. "Cầu vồng" có ý chỉ những người hippies, các phong trào Thời đại Mới và các nhóm như Gia đình Cầu vồng hoặc Cầu vòng của Jesse Jackson/Liên minh PUSH. SGL ("tình yêu đồng giới") đôi khi được những người đồng tính nam Mỹ gốc Phi ưa chuộng như một cách để phân biệt mình với cộng đồng LGBT da trắng da trắng thống trị.
Một số người ủng hộ thuật ngữ "nhóm thiểu số tính dục và bản dạng giới" (MSGI, được đặt ra vào năm 2000), hoặc các nhóm thiểu số giới và tính dục/nhóm thiểu số tính dục (GSM) để trực tiếp bao gồm tất cả những người không phải là người dị giới và dị tính; hoặc các nhóm thiểu số giới, tính dục và tình cảm (GSRM), trong đó bao gồm cả các xu hướng lãng mạn thiểu số và sự đa ái; tuy vậy những thuật ngữ đó cũng không được sử dụng rộng rãi. Các thuật ngữ bao quát hiếm gặp khác là Đa dạng Giới và Tính dục (GSD), MOGII (Các tính hướng bản lề, Bản dạng giới, và Liên giới tính) và MOGAI (Các tính hướng bản lề, Gender Alignment (Sự giao nhau về giới) và Liên giới tính).
Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ đã đóng khung LGBT, những người "có xu hướng tính dục và/hoặc bản dạng giới khác nhau, những người có thể không tự coi mình là LGBT" và cả người liên giới tính (những người bị các chứng rối loạn phát triển giới tính) là những người "thiểu số tính dục và giới (SGM)". Định nghĩa này đã dẫn đến sự phát triển của một kế hoạch chiến lược nghiên cứu y tế NIH SGM. Viện Williams đã sử dụng thuật ngữ tương tự trong một báo cáo về các mục tiêu phát triển bền vững quốc tế, nhưng không bao gồm người liên giới tính.
Tại các cơ sở y tế công cộng, thuật ngữ MSM ("nam quan hệ tình dục với nam") được sử dụng để mô tả những người đàn ông quan hệ tình dục với những người đàn ông khác mà không đề cập đến xu hướng tính dục của họ, cùng với WSW ("phụ nữ quan hệ tình dục với phụ nữ") cũng được sử dụng như một thuật ngữ tương tự.
Giải thích các thuật ngữ
Đồng tính luyến ái
Nói đến người có xu hướng tính dục (sexual orientation) đồng tính luyến ái bao gồm: đồng tính luyến ái nữ (lesbian) và đồng tính luyến ái nam (gay), gọi tắt là đồng tính. Họ là người cảm thấy sự hấp dẫn tình yêu và/hoặc tình dục với người cùng giới tính. Khác với người có xu hướng tính dục dị tính luyến ái, là cảm thấy sự hấp dẫn tình yêu và/hoặc tình dục với người khác giới tính.
Song tính luyến ái
Chỉ những người có sự hấp dẫn tình yêu, tình dục với cả những người cùng giới và khác giới tính một cách lâu dài.
Người chuyển giới
Là những người có bản dạng giới (nhận định, cảm nhận giới tính) khác với những đặc điểm giới tính của người đó lúc sinh ra, bao gồm người chuyển giới đã phẫu thuật và người chuyển giới chưa (hoặc không qua) qua phẫu thuật định giới.