Faiyum (tiếng Ả Rập: الفيوم, El Fayyūm) là thành phố trực thuộc tỉnh Faiyum, Ai Cập, nằm cách thủ đô Cairo 100 km về phía đông nam. Nó có tên gọi là Shedet trong thời Ai Cập cổ đại, người Hy Lạp sau đó gọi là Crocodilopolis (hoặc Krocodilopolis), người La Mã gọi là Arsinoë. Đây là một trong những thành phố lâu đời nhất do vị trí chiến lược của nó.
Tên gọi
Trong tiếng Anh, Faiyum còn được gọi là Fayum hoặc El Faiyūm. Trước đây thành phố này có tên chính thức là Madīnet El Faiyūm. Cái tên Faiyum có thể dùng để chỉ đến ốc đảo Faiyum, mặc dù người Ai Cập ngày nay vẫn sử dụng nó để chỉ thành phố này.
Cái tên hiện đại của thành phố bắt nguồn từ tiếng Copt (peiom hoặc payom), có nghĩa là "biển" hoặc "hồ", cùng nghĩa với từ pꜣ-ymꜥ trong tiếng Ai Cập, ám chỉ hồ Moeris ở gần đó, nơi mà loài voi Phiomia cổ xưa đã bị tuyệt chủng và được đặt theo tên của thành phố.
Lịch sử cổ đại
Những bằng chứng khảo cổ cho thấy Faiyum có niên đại ít nhất là từ Thời kỳ đồ đá giữa. Ở phía bắc hồ Qarun (tên gọi khác của hồ Moeris) là nơi Gertrude Caton Thompson và Elinor Wight Gardner đã tiến hành rất nhiều cuộc khai quật để tìm kiếm những di tích từ thời đồ đá giữa đến thời đồ đá mới, cũng như một cuộc khảo sát chung cho toàn khu vực. Khu vực này gần đây được nghiên cứu bởi một nhóm thuộc Dự án Fayum UCLA/RUG/UOA.
Trong thời đại trị vì của các pharaon, thành phố Faiyum ngày nay được gọi là Shedet. Đây là trung tâm sùng bái của vị thần cá sấu Sobek, chúa tể của Faiyum. Vì lý do này mà sau khi người Hy Lạp chiếm đóng Ai Cập đã đặt tên nó là Crocodilopolis (Κροκοδειλόπολις). Người dân của thành phố này rất tôn sùng cá sấu. Tại đây, cá sấu được thuần hóa và nuôi trong hồ thiêng, được cho ăn thịt và bánh ngọt và được đeo trang sức quý đầy mình. Chúng được đặt tên là Petsuchos, khi một Petsuchos chết đi, xác của chúng sẽ được tiến hành ướp như con người, và một Petsuchos sẽ được thay thế.
Dưới thời Ptolemaios, có một khoảng thời gian thành phố được gọi là Ptolemais Euergetis. Vua Ptolemaios II Philadelphos đổi tên thành phố theo tên người chị em, đồng thời là vợ của mình Arsinoë. Dưới đế chế La Mã, Arsinoe đã trở thành một phần của tỉnh Arcadia Aegypti. Để phân biệt với các thành phố khác cùng tên, nó được gọi là Arsinoe ở Arcadia.
Dưới sự xuất hiện của Kitô giáo, Arsinoe trở thành nơi ngự trị của các giám mục. Tuy nhiên, sang thời Công giáo Rôma, Arsinoe ở Arcadia không còn được coi là nơi ở của các giám mục nữa.
Ngày nay
Thành phố Faiyum ngày nay tập trung rất nhiều khu chợ lớn, các thánh đường Hồi giáo, nhà tắm và những phiên chợ hàng tuần thường xuyên diễn ra. Con kênh đào mang tên Bahr Yussef chảy qua thành phố, dọc hai bên bờ là nhà cửa của các cư dân. Có hai cây cầu bắc qua con kênh, một cây cầu 3 nhịp dẫn ra chợ và đường chính, và một cây cầu 2 nhịp mà trên đó, thánh đường Qaitbay được xây dựng. Các gò đất phía bắc của thành phố đánh dấu vị trí của Arsinoe, được biết đến với tên gọi cổ đại là Crocodilopolis, nơi mà những con cá sấu thiêng được nuôi ở hồ Moeris. Trung tâm của thành phố nằm ngay trên kênh Bahr Yussef, có 4 bánh xe nước được thống đốc Fayum xem như biểu tượng của nơi này.
Chân dung xác ướp Fayum
Đây là những bức tranh mô tả chân dung của người đã khuất, có niên đại từ thời kỳ Đế quốc La Mã cai trị Ai Cập. Chúng được vẽ trên những tấm vải liệm phủ trên thi hài hay những tấm ván gỗ, mà ngày nay đều được lấy ra khỏi xác ướp của chủ nhân. Có hơn 900 bức chân dung được tìm thấy, đa phần đến từ Faiyum, được cất giữ trong các bảo tàng Ai Cập trên thế giới. Những bức tranh này được bảo quản khá tốt, màu sơn của chúng vẫn không bị phai mờ theo tháng năm.
Địa điểm tham quan
- Địa điểm khảo cổ Hawara
- Thánh đường Hồi giáo Qaitbay
- Wadi El Rayan, thác nước lớn nhất của Ai Cập
- Wadi El Hitan, hay còn gọi là "Thung lũng cá voi", được UNESCO công nhận
- Kim tự tháp tại Lahun
Hình ảnh
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Faiyum** (tiếng Ả Rập: الفيوم, _El Fayyūm_) là thành phố trực thuộc tỉnh Faiyum, Ai Cập, nằm cách thủ đô Cairo 100 km về phía đông nam. Nó có tên gọi là **Shedet** trong thời Ai
**Cá sấu sông Nin**, tên khoa học **_Crocodylus niloticus_** là một loài cá sấu trong họ Crocodylidae. Loài này được Laurenti mô tả khoa học đầu tiên năm 1768. Chúng là loài cá sấu châu
**Amenemhat III**, cũng còn được viết là **Amenemhet III** là một pharaon thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông trị vì từ khoảng năm 1860 TCN tới khoảng năm 1814 TCN, niên
**Hawara** (tiếng Ả Rập: هوارة) là một di chỉ khảo cổ ở Ai Cập nằm ở phía nam thành phố Faiyum. Nơi đây nổi tiếng với những bức chân dung còn sót lại được vẽ
**Sobekhotep** hay **Sebekhotep**, ý nghĩa tên gọi: "_Làm hài lòng thần Sobek_", là một cái tên khá phổ biến, được đặt bởi các pharaon và giới quý tộc của Ai Cập cổ đại. Tên này
**Nghệ thuật Ai Cập cổ đại** đề cập tới nền nghệ thuật được sản sinh trong thời kỳ Ai Cập cổ đại từ thế kỷ thứ 6 TCN cho tới thế kỷ thứ 4 SCN,
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Usermaatre Meryamun Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses III**, là pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Trong triều đại của mình, ông xem Ramesses
**Huni**, hay **Hoeni**, (2637 TCN - 2613 TCN) là vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 3 thuộc thời kỳ Cổ Vương Quốc. Theo bản danh sách vua Turin, ông thường được coi là
Khakeperre **Senusret II** là vị pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông cai trị từ năm 1897 TCN đến năm 1878 TCN. Kim tự tháp của ông đã được
**Usermaatre Sekheperenre Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses V**, là pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ramesses V là người con duy nhất được
**Thủy lợi** là một thuật ngữ, tên gọi truyền thống của việc nghiên cứu khoa học công nghệ, đánh giá, khai thác sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên nước và môi trường, phòng tránh
nhỏ|_Sylvia melanocephala_ thumb|_Cuculus canorus canorus_ + _Sylvia melanocephala_ **_Sylvia melanocephala_** là một loài chim trong họ Sylviidae. ## Phân bố và môi trường sống Loài này sinh sản ở khu vực cực nam châu Âu
**Ó cá** hay **ưng biển** (_Pandion haliaetus_) là một loài chim săn mồi ăn cá, sống về ban ngày với phạm vi sống toàn cầu. Loài chim này có kích thước lớn với chiều dài
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Maathorneferure** là một Vương hậu của Ai Cập cổ đại thuộc vương triều thứ 19. Bà là một trong 7 vương hậu chính cung được sắc phong của Pharaon vĩ đại nhất trong lịch sử
**Khasekhemre Neferhotep I** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn giữa của vương triều thứ 13, ông đã trị vì trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ thứ 18 TCN trong một
**Wadi Al-Hitan** (, "Thung lũng Cá voi") là một địa điểm cổ sinh vật học nằm tại Faiyum Ai Cập, cách 150 km về phía tây nam Cairo. Nó được UNESCO công nhận là di sản
**Kim tự tháp Senusret II**, còn gọi là _"Senusret tỏa sáng"_, là một phức hợp kim tự tháp được xây dựng tại El Lahun (tỉnh Faiyum ngày nay) dành cho pharaon Senusret II, vua của
**Nefertari** (hay **Nefertiry**) là Chính thất Vương hậu đầu tiên của Pharaon Thutmose IV thời kỳ Vương triều thứ 18 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Không rõ xuất thân của Nefertari, nhưng chắc
**Thời kì Chuyển tiếp thứ Nhất của Ai Cập** hay **Thời kì Trung gian thứ Nhất** là một khoảng thời gian trong lịch sử Ai Cập, thường được mô tả như một "thời kì đen
**Lisht** hay **el-Lisht** là một ngôi làng nằm cách thủ đô Cairo, Ai Cập khoảng 65 km về phía nam, ngày nay là một phần của tỉnh Giza. Nơi này xưa kia là một khu nghĩa
**Arafa El-Sayed** (; sinh ngày 23 tháng 10 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Ai Cập hiện tại thi đấu cho Wadi Degla ở vị trí tiền đạo trung tâm ## Danh
**Sobek** (còn được gọi là **Sebek**, **Sochet**, **Sobk**, và **Sobki**), tiếng Hy Lạp là **Suchos** (Σοῦχος) từ tiếng Latin _Suchus_, là một vị thần mình người đầu cá sấu trong tôn giáo Ai Cập cổ