✨Chiến dịch Taman lần thứ nhất
Chiến dịch Taman lần thứ nhất do quân đội Liên Xô tổ chức tấn công các lực lượng chủ yếu của Tập đoàn quân 17 (Đức) đóng tại bán đảo Taman (bao gồm cả các lực lượng đang đóng tại Novorossiysk) nhằm buộc tập đoàn quân này phải rút sang bán đảo Krym, hoàn thành toàn bộ các mục tiêu chiến lược của chiến dịch Kavkaz.
Kế hoạch tấn công vào Taman được bắt đầu xây dựng từ ngày 20 tháng 4, khi triển vọng cuộc phản công của Quân đoàn xung kích 5 Đức vào cụm quân Myskhako tại phía Nam Novorossiysk và Quân đoàn 49 (Đức) vào Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) trên hướng Krymsk đã bị bẻ gãy. Ngày 29 tháng 4 năm 1943, các Tập đoàn quân 18 và 56 (Liên Xô) bắt đầu tấn công. Trong 5 ngày đầu của chiến dịch, quân đội Liên Xô thu được một số kết quả hạn chế, đánh chiếm được một số điểm dân cư như Krymsk, Abinsk, Slaviansk, Petrovskaya. Ngày 5 tháng 4, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) điều Quân đoàn bộ binh 49 (nguyên là Quân đoàn sơn chiến 49) vượt eo biển Kerch trở lại tham chiến. Cả bốn tập đoàn quân Liên Xô đều bị Tập đoàn quân 17 (Đức) chặn lại trên "Phòng tuyến xanh" từ sông Kurka, dọc theo một đoạn sông Kuban qua Kievskoye, Moldavansky đến Neberdzhaevskaya ở phía Bắc Novorossiysk. Các nỗ lực tiếp theo của quân đội Liên Xô nhằm tiếp tục đột phá vào "Phòng tuyến xanh" của Tập đoàn quân 17 (Đức) đều thất bại. Quân đoàn 44 (Đức) đã giữ vững các cụm cứ điểm Kievskoye, Moldovanskaya. Ngày 15 tháng 5, Quân đội Liên Xô buộc phải ngừng tấn công.
Ngày 21 tháng 5 năm 1943, Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô I. V. Stalin cách chức Tư lệnh Phương diện quân Bắc Kavkaz của trung tướng I. I. Maslenikov và cử thiếu tướng I. E. Petrov thay thế với nhiệm vụ "phải quét sạch quân Đức khỏi bán đảo Taman trong thời hạn 4 tháng".
Bối cảnh
Sau những thất bại ở đồng bằng trung lưu sông Kuban và buộc phải bỏ thành phố Krasnodar cùng với hầu hết đồng bằng Kuban và rút về cố thủ tại bán đảo Taman, Tập đoàn quân 17 (Đức) đã dựng lên ở đây một tuyến phòng thủ vững chắc gồm hai lớp. Lớp ngoài gồm hai tuyến phòng thủ không liên tục. Tuyến thứ nhất từ Cheburgolskaya dọc theo sông Protoka (phân lưu của sông Kuban) qua Petrovskaya đến Slavianskaya (Slaviansk on Kuban) trên bờ phải sông Kuban, tuyến thứ hai từ bờ trái sông Kuban (đối diện với Slavianskaya) dọc theo sông Abin đến phía trước thị trấn Abinsk và bao gồm cả cụm cứ điểm Abinsk. Lớp phòng thủ thứ hai liên tục từ phía Đông căn cứ không quân Temryuk qua Kievskoye, Moldavanskoye đến Krymsk, được cấu trúc kiến cố bằng đá do sư đoàn tù nhân khai thác từ mỏ đá Verkhnerbakansky đem về cùng với bê tông cốt thép làm bằng xi măng lấy từ nhà máy xi măng Tháng Mười Đỏ tại Novorossiysk. Phía Tây, trên bờ Biển Đen có bãi biển Anapa với một cảng nhỏ. Phía Bắc, nằm trên bờ biển Azov là căn cứ không quân Temryuk thuộc Tập đoàn quân không quân 4.
Từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 4, Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) bắt đầu mở các cuộc đột kích vào Abinsk nhưng buộc phải rút lui trước các hỏa điểm kiên cố của quân Đức. Hơn 80 khẩu pháo và 112 khẩu súng cối của tập đoàn quân bị rải ra trên một chính diện rộng 35 km đã không thể chế áp được hỏa lực của Quân đoàn bộ binh 49 (Đức). Ngày 14 tháng 4, tướng A. A. Gresko mở lại các đợt công kích mạnh hơn, thậm chí, các sư đoàn bộ binh 61 và 383 đã chiến được Abinsk và tiếp cận được các cứ điểm ở Krymsk. Chiều ngày 14 tháng 2, tướng Rudolf Konrad tung 60 xe bọc thép phản kích, đẩy lùi Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) về Abinsk. Nhận thấy một mình Tập đoàn quân 56 không thể đủ lực lượng để tấn công từ một hướng, ngày 15 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô cử tướng S. M. Stemenko đến chiến trường nghiên cứu và tìm biện pháo tháo gỡ. Kế hoạch dự định sử dụng chi viện tối đa của Không quân của hạm đội Biển Đen và không quân của Tập đoàn quân không quân 5 (Cụm không quân Kuban). Ngày phát động tiến công được dự kiến khi chiến dịch tảo thanh của tướng Wilhelm Wetzel bị chặn đứng và cụm quân Myskhako của Tập đoàn quân 18 bắt đầu phản công. *Tập đoàn quân 18 do trung tướng K. N. Leselidze chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 gồm các sư đoàn bộ binh 175, 318, lữ đoàn xe tăng 5; Quân đoàn bộ binh 16 gồm các sư đoàn bộ binh 10, 107 và 119; Sư đoàn bộ binh cận vệ 32 và các sư đoàn bộ binh 353 và 383 (trực thuộc Tập đoàn quân); Các lữ đoàn hải quân đánh bộ 9 và 83; Trung đoàn đổ bộ đường không 31; Các trung đoàn pháo binh 377 và 880 Trung đoàn súng cối 81 Trung đoàn sơn pháo 196 Các trung đoàn pháo chống tăng 236 và 249 Tập đoàn quân 56 do trung tướng A. A. Gresko chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh cận vệ 55 Các sư đoàn bộ binh 339 và 395 Các lữ đoàn bộ binh 68 và 76 Trung đoàn bộ binh 1135 Trung đoàn pháo phản lực Katyusha 1195 Trung đoàn pháo chống tăng tự hành 1187 Trung đoàn sơn pháo 197 Trung đoàn pháo chống tăng 257 Tập đoàn quân 9 do trung tướng K. A. Koroteev chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 11 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 10, các lữ đoàn bộ binh 34, 57, 62; Quân đoàn bộ binh 11 gồm các lữ đoàn bộ binh 19, 84, 131; Các sư đoàn bộ binh 276 và 389; Các trung đoàn súng cối cận vệ 66 và 96; Trung đoàn pháo phản lực 807; Các trung đoàn pháo chống tăng 18, 117 và 863; Các trung đoàn pháo binh 10, 12, 13, 16; *Các trung đoàn sơn pháo 52 và 1260. Tập đoàn quân 37 do tướng P. M. Kozlov chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 2; Các sư đoàn bộ binh 101, 105, 295 và 351; Lữ đoàn hải quân đánh bộ 1344; Sư đoàn pháo binh cận vệ 3 gồm các trung đoàn pháo binh cận vệ 3, 4 và trung đoàn súng cối 647; Trung đoàn pháo chống tăng 174; Trung đoàn sơn pháo 20; **Trung đoàn súng cối 772.
Quân đội Đức Quốc xã
Tập đoàn quân 17 (Đức) sau khi rút khỏi Bắc Kavkaz đã ở trong tình trạng bị chia cắt trên hai địa bàn. Quân đoàn bộ binh 42 rút lui sang bán đảo Krym và chuyển thành Cụm tác chiến Krym (Befehlshaber der Krim). Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 chuyển thành bộ binh thường nằm trong đội hình dự bị của Tập đoàn quân 17 đóng tại Taman. Quân đoàn bộ binh xung kích 5 giữ hướng Novorossiysk - Krymsk và Quân đoàn bộ binh 44, giữ hướng Temryuk - Moldavanskoye. Quân đoàn bộ binh xung kích 5, còn gọi là cụm quân Wetzel (Gruppe Wetzel) do tướng Wilhelm Wetzel chỉ huy, trong biên chế có Sư đoàn bộ binh 9 của tướng Freiherr von Schleinitz trực tiếp trấn giữ Novorossiysk, gồm các trung đoàn bộ binh 36, 57, 116; các trung đoàn pháo binh 7, 45; tiểu đoàn trinh sát; tiểu đoàn pháo chống tăng; tiểu đoàn công binh, tiểu đoàn thông tin, các đợn vị hậu cần, kỹ thuật của sư đoàn. Sư đoàn bộ binh 73 của tướng Johannes Nedtwig cũng được giao nhiệm vụ trấn giữ Novorossiysk, gồm các trung đoàn bộ binh 170, 186, 213, trung đoàn pháo binh, trung đoàn pháo chống tăng, các tiểu đoàn trinh sát, thông tin, công binh, hậu cần kỹ thuật. Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4 của tướng Hermann Kress (lấy từ cụm quân Krym), gồm các trung đoàn bộ binh sơn chiến 13 và 91, trung đoàn sơn pháo 94, trung đoàn pháo chống tăng 94, các tiểu đoàn trinh sát pháo binh, công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 6 Sư đoàn bộ binh 10 Các sư đoàn bộ binh 10 và 19 (Romania); Sư đoàn kỵ binh 3 (Romania); Trung đoàn huấn luyện 615; Các trung đoàn pháo binh 634, 737, 767, 781 và 792; Các trung đoàn pháo bờ biển 144, 149, 338, 707, 789; Trung đoàn cảnh binh 10 Brandenburg; Trung đoàn công binh 617. Quân đoàn bộ binh 49 do tướng Rudolf Konrad chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 125 của tướng Helmut Friebe, gồm các trung đoàn bộ binh 419, 420, 421, trung đoàn pháo binh 125, tiểu đoàn xe tăng 721, các tiểu đoàn pháo chống tăng, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 50 của tướng Friedrich Schmidt, gồm các trung đoàn bộ binh 121, 122, 123, trung đoàn pháo binh 150, trung đoàn pháo chống tăng 150, tiểu đoàn trinh sát 71, các tiểu đoàn công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 370 của tướng Hermann Bohme, gồm các trung đoàn bộ binh 666, 667, 668, trung đoàn pháo binh 370, các tiểu đoàn chống tăng, công binh, thông tin; Sư đoàn pháo binh hạng nặng 154 Sư đoàn pháo binh 607 Trung đoàn pháo binh 60 *Các tiểu đoàn công binh, thông tin trực thuộc quân đoàn. Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Maximilian de Angelis, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 79 của tướng Heinrich Kreipe gồm các trung đoàn bộ binh 208, 212, 226, trung đoàn pháo binh 179, trung đoàn pháo chống tăng 179, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 97 của tướng Albin Naske gồm các trung đoàn bộ binh 204, 207, trung đoàn pháo binh 81, trung đoàn pháo chống tăng 97, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 101 của tướng Emil Vogel gồm các trung đoàn bộ binh 228, 229, trung đoàn pháo binh 85, trung đoàn pháo chống tăng 101, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Các sư đoàn pháo binh hạng nặng 737 và 767 Các trung đoàn pháo binh 151, 704, 844. Trung đoàn trinh sát cơ giới 673; **Các tiểu đoàn thông tin, công binh trực thuộc quân đoàn.
Diễn biến
Trên hướng Krymsk
7 giờ 40 sáng 29 tháng 4, pháo binh Liên Xô bắt đầu bắn phá các vị trí phòng thủ của các Quân đoàn 5 và 44 (Đức) trên chiều dài 100 km từ Cheburgolskaya qua Petrovskaya, Slavianskaya đến phía Tây Abinsk. Trọng điểm bắn phá của pháo binh Liên Xô nhằm vào làng Krymsk, nơi đóng quân của các lực lượng chủ yếu và sở chỉ huy Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức). Trên đoạn đột phá dài 5 km đã tập trung khoảng 200 khẩu pháo của Tập đoàn quân 56 và một phần pháo binh của Tập đoàn quân 18. Hơn 100 máy bay của Tập đoàn quân không quân 5 và Hạn đội Biển Đen đã hỗ trợ cho các cuộc công kích trên mặt đất. Tuy nhiên, các đơn vị của Tập đoàn quân 56 không thể đột phá sâu vào tuyến phòng ngự của Quân đoàn xung kích 5 (Đức do các sư đoàn bộ binh 6, 10 (Đức) và sư đoàn bộ binh 10 (Romania) trấn giữ. Đến cuối ngày, Sư đoàn bộ binh cận vệ 55 của tướng M. G. Pyashev là đợn vị đột phá sâu nhất cũng chỉ tiến lên được không qua 2 km và phải dừng lại trước hệ thống hỏa điểm kiên cố của sư đoàn bộ binh 6 (Đức).
Trên hướng Bắc sông Kuban
Tập đoàn quân 9 và Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) được giao nhiệm vụ đánh vu hồi Quân đoàn 44 Đức tại các thị trấn Kievskoye và Moldavanskoye theo hướng chung đến ga Varenikovskaya; sau đó, phát triển đến Zhiginskoye (???) và Gotagayevskaya (???). Cũng giống như ở phía Nam Taman, ngay trong ngày tấn công đầu tiên, Tập đoàn quân 9 đã vấp phải một hệ thống hỏa điểm, bãi mìn và vật cản kiên cố không khác mấy so với khu vực ngoại vi phía Đông Krymsk. Các bãi mìn và vật cản dọc theo dải đầm lầy ở bờ phải sông Kuban, kéo dài từ Slavyanskaya đến Kievskoye đã ngăn cản đáng kể tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô. Để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 9, Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) cố gắng đẩy nhanh mũi đột kích từ Prikubansky qua Batareiny (???) vào Varenikovskaya ở phía Nam lên nhưng ba ngày sau, Tập đoàn quân 37 vẫn phải dừng lại trước của ngõ Moldavanskoye. Các xe tăng của cả hai bên đã hoàn toàn mất tính năng cơ động trên địa hình đầm lầy và đều trở thành các ụ pháo bọc thép chôn dưới đất.
Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7, tướng I. E. Petrov tiếp tục mở một số cuộc tấn công của các tập đoàn quân 18 và 56 nhằm nới rộng bàn đạp Krymsk nhưng đều bị các cuộc phản kích của Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức) vô hiệu hóa. Tuy nhiên, các cuộc công kích này đã làm cho Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức) không có điều kiện tập trung lực lượng để thủ tiêu bàn đạp Myskhako của Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) tại phía Nam Novorossiysk, mối đe dọa thường trực phía sau Tập đoàn quân 17.