✨Chiến dịch Taman lần thứ nhất

Chiến dịch Taman lần thứ nhất

Chiến dịch Taman lần thứ nhất do quân đội Liên Xô tổ chức tấn công các lực lượng chủ yếu của Tập đoàn quân 17 (Đức) đóng tại bán đảo Taman (bao gồm cả các lực lượng đang đóng tại Novorossiysk) nhằm buộc tập đoàn quân này phải rút sang bán đảo Krym, hoàn thành toàn bộ các mục tiêu chiến lược của chiến dịch Kavkaz.

Kế hoạch tấn công vào Taman được bắt đầu xây dựng từ ngày 20 tháng 4, khi triển vọng cuộc phản công của Quân đoàn xung kích 5 Đức vào cụm quân Myskhako tại phía Nam Novorossiysk và Quân đoàn 49 (Đức) vào Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) trên hướng Krymsk đã bị bẻ gãy. Ngày 29 tháng 4 năm 1943, các Tập đoàn quân 18 và 56 (Liên Xô) bắt đầu tấn công. Trong 5 ngày đầu của chiến dịch, quân đội Liên Xô thu được một số kết quả hạn chế, đánh chiếm được một số điểm dân cư như Krymsk, Abinsk, Slaviansk, Petrovskaya. Ngày 5 tháng 4, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) điều Quân đoàn bộ binh 49 (nguyên là Quân đoàn sơn chiến 49) vượt eo biển Kerch trở lại tham chiến. Cả bốn tập đoàn quân Liên Xô đều bị Tập đoàn quân 17 (Đức) chặn lại trên "Phòng tuyến xanh" từ sông Kurka, dọc theo một đoạn sông Kuban qua Kievskoye, Moldavansky đến Neberdzhaevskaya ở phía Bắc Novorossiysk. Các nỗ lực tiếp theo của quân đội Liên Xô nhằm tiếp tục đột phá vào "Phòng tuyến xanh" của Tập đoàn quân 17 (Đức) đều thất bại. Quân đoàn 44 (Đức) đã giữ vững các cụm cứ điểm Kievskoye, Moldovanskaya. Ngày 15 tháng 5, Quân đội Liên Xô buộc phải ngừng tấn công.

Ngày 21 tháng 5 năm 1943, Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô I. V. Stalin cách chức Tư lệnh Phương diện quân Bắc Kavkaz của trung tướng I. I. Maslenikov và cử thiếu tướng I. E. Petrov thay thế với nhiệm vụ "phải quét sạch quân Đức khỏi bán đảo Taman trong thời hạn 4 tháng".

Bối cảnh

Sau những thất bại ở đồng bằng trung lưu sông Kuban và buộc phải bỏ thành phố Krasnodar cùng với hầu hết đồng bằng Kuban và rút về cố thủ tại bán đảo Taman, Tập đoàn quân 17 (Đức) đã dựng lên ở đây một tuyến phòng thủ vững chắc gồm hai lớp. Lớp ngoài gồm hai tuyến phòng thủ không liên tục. Tuyến thứ nhất từ Cheburgolskaya dọc theo sông Protoka (phân lưu của sông Kuban) qua Petrovskaya đến Slavianskaya (Slaviansk on Kuban) trên bờ phải sông Kuban, tuyến thứ hai từ bờ trái sông Kuban (đối diện với Slavianskaya) dọc theo sông Abin đến phía trước thị trấn Abinsk và bao gồm cả cụm cứ điểm Abinsk. Lớp phòng thủ thứ hai liên tục từ phía Đông căn cứ không quân Temryuk qua Kievskoye, Moldavanskoye đến Krymsk, được cấu trúc kiến cố bằng đá do sư đoàn tù nhân khai thác từ mỏ đá Verkhnerbakansky đem về cùng với bê tông cốt thép làm bằng xi măng lấy từ nhà máy xi măng Tháng Mười Đỏ tại Novorossiysk. Phía Tây, trên bờ Biển Đen có bãi biển Anapa với một cảng nhỏ. Phía Bắc, nằm trên bờ biển Azov là căn cứ không quân Temryuk thuộc Tập đoàn quân không quân 4.

Từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 4, Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) bắt đầu mở các cuộc đột kích vào Abinsk nhưng buộc phải rút lui trước các hỏa điểm kiên cố của quân Đức. Hơn 80 khẩu pháo và 112 khẩu súng cối của tập đoàn quân bị rải ra trên một chính diện rộng 35 km đã không thể chế áp được hỏa lực của Quân đoàn bộ binh 49 (Đức). Ngày 14 tháng 4, tướng A. A. Gresko mở lại các đợt công kích mạnh hơn, thậm chí, các sư đoàn bộ binh 61 và 383 đã chiến được Abinsk và tiếp cận được các cứ điểm ở Krymsk. Chiều ngày 14 tháng 2, tướng Rudolf Konrad tung 60 xe bọc thép phản kích, đẩy lùi Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) về Abinsk. Nhận thấy một mình Tập đoàn quân 56 không thể đủ lực lượng để tấn công từ một hướng, ngày 15 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô cử tướng S. M. Stemenko đến chiến trường nghiên cứu và tìm biện pháo tháo gỡ. Kế hoạch dự định sử dụng chi viện tối đa của Không quân của hạm đội Biển Đen và không quân của Tập đoàn quân không quân 5 (Cụm không quân Kuban). Ngày phát động tiến công được dự kiến khi chiến dịch tảo thanh của tướng Wilhelm Wetzel bị chặn đứng và cụm quân Myskhako của Tập đoàn quân 18 bắt đầu phản công. *Tập đoàn quân 18 do trung tướng K. N. Leselidze chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 gồm các sư đoàn bộ binh 175, 318, lữ đoàn xe tăng 5; Quân đoàn bộ binh 16 gồm các sư đoàn bộ binh 10, 107 và 119; Sư đoàn bộ binh cận vệ 32 và các sư đoàn bộ binh 353 và 383 (trực thuộc Tập đoàn quân); Các lữ đoàn hải quân đánh bộ 9 và 83; Trung đoàn đổ bộ đường không 31; Các trung đoàn pháo binh 377 và 880 Trung đoàn súng cối 81 Trung đoàn sơn pháo 196 Các trung đoàn pháo chống tăng 236 và 249 Tập đoàn quân 56 do trung tướng A. A. Gresko chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh cận vệ 55 Các sư đoàn bộ binh 339 và 395 Các lữ đoàn bộ binh 68 và 76 Trung đoàn bộ binh 1135 Trung đoàn pháo phản lực Katyusha 1195 Trung đoàn pháo chống tăng tự hành 1187 Trung đoàn sơn pháo 197 Trung đoàn pháo chống tăng 257 Tập đoàn quân 9 do trung tướng K. A. Koroteev chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 11 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 10, các lữ đoàn bộ binh 34, 57, 62; Quân đoàn bộ binh 11 gồm các lữ đoàn bộ binh 19, 84, 131; Các sư đoàn bộ binh 276 và 389; Các trung đoàn súng cối cận vệ 66 và 96; Trung đoàn pháo phản lực 807; Các trung đoàn pháo chống tăng 18, 117 và 863; Các trung đoàn pháo binh 10, 12, 13, 16; *Các trung đoàn sơn pháo 52 và 1260. Tập đoàn quân 37 do tướng P. M. Kozlov chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 2; Các sư đoàn bộ binh 101, 105, 295 và 351; Lữ đoàn hải quân đánh bộ 1344; Sư đoàn pháo binh cận vệ 3 gồm các trung đoàn pháo binh cận vệ 3, 4 và trung đoàn súng cối 647; Trung đoàn pháo chống tăng 174; Trung đoàn sơn pháo 20; **Trung đoàn súng cối 772.

Quân đội Đức Quốc xã

Tập đoàn quân 17 (Đức) sau khi rút khỏi Bắc Kavkaz đã ở trong tình trạng bị chia cắt trên hai địa bàn. Quân đoàn bộ binh 42 rút lui sang bán đảo Krym và chuyển thành Cụm tác chiến Krym (Befehlshaber der Krim). Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 chuyển thành bộ binh thường nằm trong đội hình dự bị của Tập đoàn quân 17 đóng tại Taman. Quân đoàn bộ binh xung kích 5 giữ hướng Novorossiysk - Krymsk và Quân đoàn bộ binh 44, giữ hướng Temryuk - Moldavanskoye. Quân đoàn bộ binh xung kích 5, còn gọi là cụm quân Wetzel (Gruppe Wetzel) do tướng Wilhelm Wetzel chỉ huy, trong biên chế có Sư đoàn bộ binh 9 của tướng Freiherr von Schleinitz trực tiếp trấn giữ Novorossiysk, gồm các trung đoàn bộ binh 36, 57, 116; các trung đoàn pháo binh 7, 45; tiểu đoàn trinh sát; tiểu đoàn pháo chống tăng; tiểu đoàn công binh, tiểu đoàn thông tin, các đợn vị hậu cần, kỹ thuật của sư đoàn. Sư đoàn bộ binh 73 của tướng Johannes Nedtwig cũng được giao nhiệm vụ trấn giữ Novorossiysk, gồm các trung đoàn bộ binh 170, 186, 213, trung đoàn pháo binh, trung đoàn pháo chống tăng, các tiểu đoàn trinh sát, thông tin, công binh, hậu cần kỹ thuật. Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4 của tướng Hermann Kress (lấy từ cụm quân Krym), gồm các trung đoàn bộ binh sơn chiến 13 và 91, trung đoàn sơn pháo 94, trung đoàn pháo chống tăng 94, các tiểu đoàn trinh sát pháo binh, công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 6 Sư đoàn bộ binh 10 Các sư đoàn bộ binh 10 và 19 (Romania); Sư đoàn kỵ binh 3 (Romania); Trung đoàn huấn luyện 615; Các trung đoàn pháo binh 634, 737, 767, 781 và 792; Các trung đoàn pháo bờ biển 144, 149, 338, 707, 789; Trung đoàn cảnh binh 10 Brandenburg; Trung đoàn công binh 617. Quân đoàn bộ binh 49 do tướng Rudolf Konrad chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 125 của tướng Helmut Friebe, gồm các trung đoàn bộ binh 419, 420, 421, trung đoàn pháo binh 125, tiểu đoàn xe tăng 721, các tiểu đoàn pháo chống tăng, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 50 của tướng Friedrich Schmidt, gồm các trung đoàn bộ binh 121, 122, 123, trung đoàn pháo binh 150, trung đoàn pháo chống tăng 150, tiểu đoàn trinh sát 71, các tiểu đoàn công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 370 của tướng Hermann Bohme, gồm các trung đoàn bộ binh 666, 667, 668, trung đoàn pháo binh 370, các tiểu đoàn chống tăng, công binh, thông tin; Sư đoàn pháo binh hạng nặng 154 Sư đoàn pháo binh 607 Trung đoàn pháo binh 60 *Các tiểu đoàn công binh, thông tin trực thuộc quân đoàn. Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Maximilian de Angelis, trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 79 của tướng Heinrich Kreipe gồm các trung đoàn bộ binh 208, 212, 226, trung đoàn pháo binh 179, trung đoàn pháo chống tăng 179, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 97 của tướng Albin Naske gồm các trung đoàn bộ binh 204, 207, trung đoàn pháo binh 81, trung đoàn pháo chống tăng 97, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Sư đoàn bộ binh 101 của tướng Emil Vogel gồm các trung đoàn bộ binh 228, 229, trung đoàn pháo binh 85, trung đoàn pháo chống tăng 101, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin; Các sư đoàn pháo binh hạng nặng 737 và 767 Các trung đoàn pháo binh 151, 704, 844. Trung đoàn trinh sát cơ giới 673; **Các tiểu đoàn thông tin, công binh trực thuộc quân đoàn.

Diễn biến

Trên hướng Krymsk

7 giờ 40 sáng 29 tháng 4, pháo binh Liên Xô bắt đầu bắn phá các vị trí phòng thủ của các Quân đoàn 5 và 44 (Đức) trên chiều dài 100 km từ Cheburgolskaya qua Petrovskaya, Slavianskaya đến phía Tây Abinsk. Trọng điểm bắn phá của pháo binh Liên Xô nhằm vào làng Krymsk, nơi đóng quân của các lực lượng chủ yếu và sở chỉ huy Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức). Trên đoạn đột phá dài 5 km đã tập trung khoảng 200 khẩu pháo của Tập đoàn quân 56 và một phần pháo binh của Tập đoàn quân 18. Hơn 100 máy bay của Tập đoàn quân không quân 5 và Hạn đội Biển Đen đã hỗ trợ cho các cuộc công kích trên mặt đất. Tuy nhiên, các đơn vị của Tập đoàn quân 56 không thể đột phá sâu vào tuyến phòng ngự của Quân đoàn xung kích 5 (Đức do các sư đoàn bộ binh 6, 10 (Đức) và sư đoàn bộ binh 10 (Romania) trấn giữ. Đến cuối ngày, Sư đoàn bộ binh cận vệ 55 của tướng M. G. Pyashev là đợn vị đột phá sâu nhất cũng chỉ tiến lên được không qua 2 km và phải dừng lại trước hệ thống hỏa điểm kiên cố của sư đoàn bộ binh 6 (Đức).

Trên hướng Bắc sông Kuban

Tập đoàn quân 9 và Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) được giao nhiệm vụ đánh vu hồi Quân đoàn 44 Đức tại các thị trấn Kievskoye và Moldavanskoye theo hướng chung đến ga Varenikovskaya; sau đó, phát triển đến Zhiginskoye (???) và Gotagayevskaya (???). Cũng giống như ở phía Nam Taman, ngay trong ngày tấn công đầu tiên, Tập đoàn quân 9 đã vấp phải một hệ thống hỏa điểm, bãi mìn và vật cản kiên cố không khác mấy so với khu vực ngoại vi phía Đông Krymsk. Các bãi mìn và vật cản dọc theo dải đầm lầy ở bờ phải sông Kuban, kéo dài từ Slavyanskaya đến Kievskoye đã ngăn cản đáng kể tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô. Để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 9, Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) cố gắng đẩy nhanh mũi đột kích từ Prikubansky qua Batareiny (???) vào Varenikovskaya ở phía Nam lên nhưng ba ngày sau, Tập đoàn quân 37 vẫn phải dừng lại trước của ngõ Moldavanskoye. Các xe tăng của cả hai bên đã hoàn toàn mất tính năng cơ động trên địa hình đầm lầy và đều trở thành các ụ pháo bọc thép chôn dưới đất.

Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7, tướng I. E. Petrov tiếp tục mở một số cuộc tấn công của các tập đoàn quân 18 và 56 nhằm nới rộng bàn đạp Krymsk nhưng đều bị các cuộc phản kích của Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức) vô hiệu hóa. Tuy nhiên, các cuộc công kích này đã làm cho Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức) không có điều kiện tập trung lực lượng để thủ tiêu bàn đạp Myskhako của Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) tại phía Nam Novorossiysk, mối đe dọa thường trực phía sau Tập đoàn quân 17.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Taman lần thứ nhất** do quân đội Liên Xô tổ chức tấn công các lực lượng chủ yếu của Tập đoàn quân 17 (Đức) đóng tại bán đảo Taman (bao gồm cả các
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch giải phóng Taman** là hoạt động quân sự lớn cuối cùng của quân đội Liên Xô trong toàn bộ chiến dịch Kavkaz diễn ra từ ngày 10 tháng 9 đến ngày 9 tháng
**Chiến dịch Myskhako** là một phần hoạt động quân sự của Kế hoạch "Biển" của quân đội Liên Xô trong giai đoạn phản công của Chiến dịch Kavkaz. Từ ngày 4 tháng 2 năm 1943,
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch giải phóng Novorossiysk** là cuộc tấn công chiến thuật của Tập đoàn quân 18 và Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943 để thu
**Chiến dịch phòng thủ Tuapse** là một trong các hoạt động quân sự quân trong của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Kavkaz, một phần diễn biến của
**Chiến dịch Kerch-Eltigen** là một chiến dịch đổ bộ đường biển do Hồng quân Liên Xô tổ chức, diễn ra trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi sự ngày
**Chiến dịch Maikop-Krasnodar** là cuộc tấn công lớn của Quân đội Liên Xô tại Bắc Kavkaz chống lại Tập đoàn quân 17 của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực phía Tây đồng bằng
**Chiến dịch phòng thủ Novorossiysk** nằm trong chuỗi Chiến dịch Kavkaz của Chiến tranh Xô-Đức. Bắt đầu từ ngày 17 tháng 8, Tập đoàn quân 17 (Đức)sử dụng Quân đoàn bộ binh xung kích 5
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Chiến dịch phòng thủ Mozdok–Malgobek** là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua
**Không chiến tại Kuban** là chiến dịch hoạt động quân sự trên không lớn nhất trong chuỗi chiến dịch ở Kavkaz (1943) nhằm tranh quyền khống chế không phận và là một trong các cuộc
**Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk** (còn gọi là _Chiến dịch Hạ Dniepr_) là hoạt động quân sự lớn do Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) tiến hành chống lại Tập đoàn quân 6 (tái lập)
**Trận phòng thủ vùng mỏ Adzhimushkay** () là một trận đánh diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã, kéo dài từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 30 tháng
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Boris Nikolaevich Yeltsin** (, ; sinh ngày 1 tháng 2 năm 1931 – mất ngày 23 tháng 4 năm 2007) là nhà hoạt động quốc gia, chính trị của Nga và Liên Xô. Ông là
**Trận bán đảo Kerch (1942)** là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch
**Thant** (; ; ; 22 tháng 1 năm 190925 tháng 11 năm 1974), gọi kính trọng là **U Thant** () là một nhà ngoại giao người Myanmar và là Tổng Thư ký thứ ba của
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
**Sư đoàn bộ binh ô tô Cận vệ số 2 "Taman", Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Suvorov, mang tên M. I. Kalinin** (), hoặc gọi đơn giản là
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Kuala Lumpur**, tên chính thức là **Lãnh thổ Liên bang Kuala Lumpur** (tiếng Mã Lai: Wilayah Persekutuan Kuala Lumpur), hay thường được viết tắt là **KL**, là thủ đô liên bang và thành phố đông
**Kota Kinabalu** (đọc là [ˈkota kinaˈbalu]), trước đây mang tên **Jesselton**, là thủ phủ của bang Sabah, Malaysia và cũng là thủ phủ của Phân khu Bờ Tây thuộc bang này. Thành phố có diện
Thống tướng **Suharto** (8 tháng 6 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2008), chính tả cũ là **Soeharto**, là tổng thống thứ nhì của Indonesia, ông giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia trong
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Sergey Georgyevich Gorshkov** (; 26 tháng 2 năm 1910 - 13 tháng 5 năm 1988) là một Đô đốc Hải quân Liên Xô, từng hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
**Kuching** (chữ Jawi: ; ), gọi chính thức là **Thành phố Kuching**, là thủ phủ và thành phố đông dân nhất của bang Sarawak tại Malaysia. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Kuching. Thành
**Thành phố Chiang Mai** (tiếng Thái: เทศบาลนครเชียงใหม่ เชียงใหม่, _Thesaban nakhon Chiang Mai_), phiên âm đúng là **Chiêng Mài**, hay Xương-mại (theo sử Việt thời nhà Nguyễn), là thành phố lớn thứ hai (xét theo quy
thumb|Bản đồ vệ tinh bán đảo Krym tháng 5 năm 2015 **Krym** là một bán đảo tại Đông Âu, trên bờ biển phía bắc biển Đen, bị bao quanh hầu như hoàn toàn bởi biển
**Johor** là một bang của Malaysia, nằm tại phần phía nam của Malaysia bán đảo. Đây là một trong các bang phát triển nhất tại Malaysia. Thủ phủ của bang Johor là Johor Bahru, từng
**Vụ án Tamám Shud**, còn được gọi là **bí ẩn của người đàn ông Somerton**, là một vụ án chưa được giải quyết về cái chết của một người đàn ông không xác định
**_The Amazing Race 11_** (có thể gọi là **_The Amazing Race: All-Stars_**) là mùa thứ 11 của chương trình truyền hình thực tế The Amazing Race. 11 đội đã đua từ những mùa trước và
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
**"Phù thủy đêm"** (; , ) là biệt danh mà các binh sĩ Đức Quốc Xã đặt cho các nữ phi công quân sự của **Trung đoàn không quân ném bom đêm 588** (**'), sau
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1982, Leonid Ilyich Brezhnev, Tổng bí thư thứ ba của Đảng Cộng sản Liên Xô và là lãnh tụ thứ năm của Liên bang Xô viết, qua đời ở
**Cầu Krym**, **Cầu Kerch** (, Керченский мост tr. _Kerchensky most_), hay còn gọi là **Cầu Eo biển Kerch**, là một cặp cầu song song nhau do Liên bang Nga xây dựng, nối liền Bán đảo
**Hổ Sumatra** (danh pháp hai phần: _Panthera tigris sumatrae_) là một phân loài hổ nhỏ nhất còn sống sót, được tìm thấy ở đảo Sumatra (Indonesia). Theo Sách đỏ IUCN, chúng là loài cực kỳ
**Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Puskin** (, viết tắt ) là bảo tàng lớn nhất của nghệ thuật Châu Âu ở Moskva, nằm trên đường Volkhonka, ngay đối diện Nhà thờ chính tòa Chúa