Ba, còn được biết đến là Horus Ba (2650 TCN—?), là tên serekh của một vị vua tiền triều đại của Ai Cập hoặc Ai Cập cổ đại, ông có thể đã trị vì vào giai đoạn cuối vương triều thứ Nhất, nửa sau của vương triều thứ 2 hoặc dưới thời vương triều thứ 3. Chúng ta không biết chính xác độ dài triều đại cũng như vị trí của ông trong biên niên sử.
Các nguồn của tên gọi
Những nguồn chắc chắn duy nhất cho tên gọi của vị vua "Ba" là một mảnh vỡ bằng đá phiến xanh, nó được tìm thấy trong các phòng trưng bày ngầm nằm bên dưới kim tự tháp bậc thang của vua Djoser tại Sakkara, và ngôi mộ mastaba của viên quan đại thần thuộc vương triều thứ 6 Ny-Ankh-Ba.
Danh tính
thumb|Serekh của Horus Ba.
Có rất ít điều được biết đến về vua Ba. Một số ít các bằng chứng khảo cổ học chỉ có thể đảm bảo sự tồn tại của một vị vua như vậy, nhưng chúng lại không cung cấp thêm thông tin gì khác.
Năm 1899 nhà khoa học Alessandro Ricci đã xuất bản một bản vẽ của một serekh cùng với một cái chân duy nhất (Ký tự D58 của Gardiner) là chữ tượng hình bên trong. Theo Ricci, serekh này được tìm thấy trong một bản khắc đá ở Wadi Maghareh, Sinai. Nhà Ai Cập học Jaroslav Černý và Michel Baude đã phát hiện ra rằng Ricci đề cập tới bản khắc đá của vị vua vương triều thứ 3 là Sanakht. Ricci đơn giản là đã hiểu sai các ký hiệu dùng cho tên của Sanakht - một ký hiệu thẳng đứng của một thòng lọng dây thừng, ký hiệu hình díc dắc đại diện cho nước và một ký hiệu cành cây bên dưới- như là một biểu tượng chân duy nhất.
Những nhà Ai Cập học như Černý và Peter Kaplony nghĩ rằng vua Ba có thể được đồng nhất với vị vua được chứng thực ít ỏi tương tự là "Horus Chim". Vị vua này viết tên của mình bằng ký hiệu của một con ngỗng-giống chim, nhưng bởi vì việc vẽ ký hiệu chim được nhắc đến này lại thiếu các chi tiết mang tính nghệ thuật mà cho phép bất kỳ sự đồng nhất nào, các nhà Ai Cập học vẫn đang tranh luận về cách đọc đúng và ý nghĩa của tên "Chim". Černý và Kaplony nghĩ rằng tên của hai vị vua có cùng cách phiên âm: "Ba". Trong trường hợp này Horus Ba và Horus Chim sẽ là cùng một nhân vật lịch sử. Giả thuyết của Černý và Kaplon thường không được chấp nhận.
Ngược lại, các nhà Ai Cập học như là Nabil Swelim nghĩ rằng Horus Ba là người kế vị trực tiếp của vị vua vương triều thứ 2 Nynetjer. Ông ta lưu ý đến hình thái tên gọi của Nynetjer trong bản danh sách vua Abydos, mà bắt đầu bằng cùng một ký hiệu chữ tượng hình (một con cừu; ký hiệu E11 của Gardiner) giống với tên serekh của Horus Ba. Swelim do đó tin rằng tên Horus của Ba đã bị lẫn lộn với tên gọi lúc sinh ra của Nynetjer.
Địa điểm chôn cất của Ba chưa được biết rõ.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ba**, còn được biết đến là **Horus Ba** (2650 TCN—?), là tên serekh của một vị vua tiền triều đại của Ai Cập hoặc Ai Cập cổ đại, ông có thể đã trị vì vào
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu
**Lời nguyền của các Pharaon** là lời nguyền cho bất kỳ ai xâm phạm lăng mộ của người Ai Cập cổ đại, nhất là lăng mộ của các vị vua Ai Cập, các Pharaon, thì
**Horus Bird**, còn được gọi là **Horus-Ba**, có khả năng là một vị pharaon có thời gian cai trị rất ngắn (thế kỷ 28 TCN). Các thông tin hiện tại chưa cho ta biết rõ
**Den**, còn được gọi là **Hor-Den**, **Dewen** và **Udimu** (T.K. 30 TCN—2995 TCN), là tên Horus của một vị vua thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua được
nhỏ|Ngôi đền tang lễ cổ đại của [[Djoser, ở Saqqara]] **Vương triều thứ Ba của Ai Cập cổ đại** là triều đại thứ ba của lịch sử Ai Cập cổ đại và là vương triều
**Weneg** (hoặc **Uneg**), còn được gọi là **Weneg-Nebty**, là tên gọi khi lên ngôi của một vị vua Ai Cập, ông là một vị vua của Vương triều thứ Hai. Thời gian cai trị của
**Vương triều thứ Ba Mươi Mốt của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 31**) là một vương triều thuộc Thời kỳ Hậu nguyên và **Thời kỳ Satrap Ai Cập thứ hai** đã tồn tại
**Vương triều thứ Hai Mươi Ba của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 23**) là vương triều trong lịch sử Ai Cập, thường được coi là một phần của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ
trái|nhỏ|173x173px|Một mặt nạ xác ướp thuộc Vương triều thứ 30 **Vương triều thứ Ba Mươi của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 30**) là một vương triều được cai trị bởi các pharaon Ai
**Sheneh** là một vị vua cai trị một vài vùng của Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai, có thể là vào thế kỷ thứ XVII TCN, và dường như thuộc về vương
**Artaxerxes IV Arses** là vua nhà Achaemenes của Ba Tư (338 TCN – 336 TCN). Ông là con trai út của vua Artaxerxes III và Atossa và không được dự kiến là sẽ thừa kế
**Hatshepsut** hay **Hatchepsut** (), (khoảng 1508-1458 TCN) là con gái của pharaon Thutmosis I đồng thời vừa là chị cùng cha khác mẹ vừa là vợ của pharaon Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**_Bá tước Monte Cristo_** (tiếng Pháp: _Le Comte de Monte Cristo_) là một tiểu thuyết phiêu lưu của Alexandre Dumas _cha_. Cùng với một tác phẩm khác của ông là Ba người lính ngự lâm,
Bá tước Monte-Cristo, trọn bộ 3 tập, tặng kèm 02 postcards THÔNG TIN ẤN PHẨM Tác giả Alexandre Dumas Người dịch Mai Vũ Minh Khoa Nhà xuất bản Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Kích
Chàng thủy thủ thuyền phó Edmond Dantès hiếu thảo, trung tín, đã hứa hôn với nàng Mercédès xinh đẹp, đang đứng trước một tương lai rộng mở khi sắp sửa được thăng chức thuyền trưởng
**Ramesses II** (hay **Ramesses đại đế**, **Ramses II**, **Rameses II**, ông cũng được biết đến với tên **Ozymandias** theo tiếng Hy Lạp, từ sự chuyển ký tự từ tiếng Hy Lạp sang một phần tên
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Merneith** (2925 TCN—?; còn được biết dưới các cái tên **Meritnit**, **Meryet-Nit** hoặc **Meryt-Neith**) là một Vương hậu nhiếp chính của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ nhất. Bà có thể đã tự
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Sobekneferu**, hay **Nefrusobek** là con gái của pharaon Amenemhat III và em gái pharaon Amenemhat IV. Sau khi Amenemhat IV băng hà thì Sobekneferu lên ngôi pharaon và trị vì Vương triều thứ 12 của
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
**Hor-Aha** (3100 TCN—3037 TCN; hoặc **Aha** hay **Horus Aha**) được coi là vị pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng thế kỷ 31 TCN và
**Psusennes I**, **Pasibkhanu** hoặc **Hor-Pasebakhaenniut I** là vị quân vương thứ ba của Vương triều thứ 21 nước Ai Cập, ông trị vì từ năm 1047 cho đến năm 1001 TCN. Tên gọi Psusennes là
**Usermaatre Meryamun Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses III**, là pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Trong triều đại của mình, ông xem Ramesses
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Djedhor**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi là **Teos** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Τέως) hoặc **Tachos** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Τάχως), là một pharaon thuộc vương triều thứ 30 của Ai
**Ankhkaenre Psammetichus III** hay **Psametik III** (hoặc **Psamtek** hay **Psamtik** hay **Psemmtek III**) là con trai của pharaon Amasis II của Vương triều thứ 26 Ai Cập cổ đại và hoàng hậu Tentheta. Ông lên
**Pepi II** (còn là **Pepy II**; 2284 TCN – sau năm 2247 TCN, có thể hoặc là khoảng năm 2216 hoặc khoảng năm 2184 TCN Những dòng chữ khắc trên các khối đá cho biết
**Ahmose I**, hay **Ahmosis I** hoặc **Amasis I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại và là người sáng lập ra Vương triều thứ 18. Ông là thành viên của hoàng gia Thebes, con
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Twosret** (**Tawosret**, **Tausret**) được biết đến là Nữ vương cuối cùng của Ai Cập cổ đại trong các vương triều và là Pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 19. Bà được sách Manetho chép
**Khufu** ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là **Cheops** hay **Kheops**; tên đầy đủ là **Khnum Khufu** ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư
**Narmer** (3273 TCN—2987 TCN) là một vị vua Ai Cập cổ đại trong giai đoạn Sơ triều đại Ai Cập. Ông có lẽ là người đã kế vị vua Scorpion II hoặc Ka và còn
**Kheperkare Nakhtnebef**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi theo tiếng Hy Lạp là **Nectanebo I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là người sáng lập ra vương triều bản địa