Vương Mãnh (chữ Hán: 王猛, ? – ?) tự Thế Hùng, người Lâm Nghi, Lang Da , tướng lãnh nhà Trần đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Mãnh vốn có tên Dũng, là thành viên của sĩ tộc họ Vương quận Lang Da, cháu trực hệ 7 đời của phụ chánh đại thần Vương Bưu Chi nhà Đông Tấn. Phả hệ sĩ tộc họ Vương cho đến Mãnh như sau: Vương Lãm → Vương Chính → Vương Bân → Vương Bưu Chi → Vương Lâm Chi → Vương Nạp Chi (hay Vương Nột Chi) → Vương Hoài Chi (hay Vương Chuẩn Chi) → Vương Hưng Chi (hay Vương Dư Chi) → Vương Tiến Chi → Vương Thanh → Vương Mãnh.
Cha là Tân Dã, Đông Dương 2 quận thái thú, Trung Lư công Vương Thanh. Mãnh lên 5 tuổi, Vương Thanh giúp Đỗ Kham chống lại tướng của Trần Bá Tiên là Trần Thiến (sau này là Trần Văn đế), đánh bại và đuổi nà Thiến. Đồng sự của Vương Thanh là Quảng Châu thứ sử Âu Dương Ngỗi bất ngờ quay ra giết chết ông ta rồi quy hàng Trấn Bá Tiên. Trần Thiến đem quân vượt sông Chiết, tìm bắt và giết cả nhà họ Vương. Mẹ của Mãnh là Vi thị đem ông đi trốn ở Hội Kê nên tránh được vạ.
Phục vụ nhà Trần
Thời Tuyên đế
Đến khi trưởng thành, Mãnh học tập siêng năng không mỏi, đọc khắp kinh sử, thạo cả Tôn, Ngô binh pháp. Vì cái chết của cha, Mãnh cho đến trọn đời Trần Văn đế, không nghe âm nhạc, ăn cơm rau mặc áo vải, hành xử như đang giữ tang. Trần Tuyên đế lên ngôi, Mãnh mới bắt đầu xin quan chức. Năm Thái Kiến đầu tiên (569), Mãnh bắt đầu được làm Bà Dương vương phủ Trung binh tham quân, sau 2 lần thăng chức thì được làm đến Vĩnh Dương vương phủ Lục sự tham quân.
Mãnh tính khẳng khái, luôn ưa chuộng công danh. Ban đầu Mãnh dâng sớ trình bày sách lược an định biên thùy và mở rộng bờ cõi, rất được hoàng đế khen ngợi, đến nay triều đình giáng chiếu cho ông theo Đại đô đốc Ngô Minh Triệt giành đất của nhà Bắc Tề; Mãnh nhờ quân công được phong Ứng Dương huyện tử. Mãnh dần được thăng làm Thái tử hữu vệ soái, dời làm Tấn Lăng thái thú. Mãnh ơn uy đều dùng, khiến trộm cướp trốn tránh, nhà buôn đến cõi đều nói: “Để giao cho Vương phủ quân.” Người trong quận ca ngợi Mãnh, so sánh với Triệu Quảng Hán đời Hán.
Thời Hậu Chủ
Năm Chí Đức đầu tiên (583), Mãnh được trưng làm Tả kiêu kỵ tướng quân, gia Tán kỵ thường vị, rất được tin cậy. Bấy giờ bọn Khổng Phạm, Thi Văn Khánh kết bè với nhau, hãm hại những ai chống đối, bàn bạc muốn đưa Mạnh ra ngoài nhưng chưa có dịp. Gặp lúc Quảng Châu thứ sử Tư Mã Tĩnh không chịu trưng, triều đình bèn trừ Mãnh làm Đô đốc Đông Hành Châu thứ sử, lĩnh chức Thủy Hưng nội sử, cùng Quảng Châu thứ sử Trần Phương Khánh đi bắt Tĩnh. Mãnh đến, lập tức bắt được Tĩnh, giải về Kiến Nghiệp, được tiến tước làm công, gia Quang thắng tướng quân, Bình Việt trung lang tướng, Đại đô đốc; ông phát binh của Quảng, Quế 20 châu, đánh dẹp những vùng xa xôi của Lĩnh Nam, đi đến đâu bình định đến đấy.
Năm Trinh Minh thứ 2 (588), triều đình giáng chiêu thụ Mãnh làm Trấn nam đại tướng quân, Đô đốc 24 châu chư quân sự, ít lâu mệnh cho ông dời sang trấn thủ Quảng Châu. Mãnh chưa đến trấn thì quân Tùy đã vượt Trường Giang; ông bèn đốc toàn quân về cứu viện. Bấy giờ Quảng Châu thứ sử Lâm Nhữ hầu Trần Phương Khánh, Tây Hành Châu thứ sử Hành Dương vương Trần Bá Tín nằm dưới quyền chỉ huy của Mãnh, nhưng đều ngồi nhìn mà không đến. Mãnh sai Cao Châu thứ sử Đái Trí Liệt, Thanh Viễn thái thủ Tăng Hiếu Viễn đều đem khinh binh đi bắt chém họ, rồi phát động quân đội của họ. Đến khi nghe tin Đài thành thất thủ, Mãnh bèn làm lễ cử ai, mặc đồ tang, ngủ chiếu rơm và không ăn cơm, than rằng: “Thân Bao Tư đơn độc thế đấy!” rồi kìm quân men Trường Giang để kháng cự, hòng giữ vững khí tiết. Sau đó Mãnh tra được Trần Hậu Chủ chưa chết, bèn sai bộ tướng Tân Phưởng chạy trạm dịch đến kinh đô Trường An của nhà Tùy xin hàng. Tùy Văn đế rất hài lòng, nói với Phưởng rằng: “Mãnh nhớ mong chủ cũ, chuẩn bị tang sự, tức là bề tôi đáng tin của ta. Giữ vững một phương, không nhọc binh giáp, lại là bề tôi có công của ta đấy.” Ngay hôm ấy Văn đế bái Phưởng làm Khai phủ Nghi đồng tam tư, còn giáng chiếu cho Mãnh cùng Hành quân tổng quản Vi Hoảng nhân đó ở lại kinh lược Lĩnh Biểu.
Phục vụ nhà Tùy
Mẹ và vợ con của Mãnh trước đây ở lại Kiến Nghiệp, nhân đó theo Trần Hậu Chủ vào Trường An, triều đình giáng chiếu ban nhà cửa cùng đồ vật rất hậu, riêng thưởng cho 1000 tấm lụa, còn sai người đưa tỷ thư úy lạo ông. Mãnh tiếp tục bình định Sơn Việt, cho người chạy trạm dịch trình tấu tình hình. Bấy giờ Tùy Văn đế ghé thăm Hà Đông, gặp sứ giả của Mãnh đến, rất hài lòng. Dương Tố chúc mừng rằng: “Khi xưa Hán Vũ đế ở đất này nghe tin mừng (văn hỷ), dùng việc ấy để đổi tên huyện (tức là huyện Văn Hỷ), Vương Mãnh nay báo tiệp, hơi giống việc ngày trước.” Vì thế triều đình giáng tỷ thư khen thưởng, lấy con trai trưởng của Mãnh là Vương Thiện làm Khai phủ Nghi đồng tam tư.
Ít lâu sau Mãnh mất ở Quảng Châu, Tùy Văn đế nghe tin thì đau lòng, sai sứ điếu tế, tặng Thượng Khai phủ Nghi đồng tam tư, phong tước Quy Nhân huyện công. Triều đình mệnh cho Vương Thiện kế tập, còn được thụ chức Phổ Châu thứ sử. Năm Nhân Thọ đầu tiên (601), em Thiện là Vương Tục dâng biểu trình bày ý nguyện của Mãnh, xin được chôn ở Quan Trung, triều đình giáng chiếu đồng ý, còn tặng Mãnh chức Sứ trì tiết, Đại tướng quân, Tống Châu thứ sử, 3 châu chư quân sự, thụy là Thành.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Mãnh** (chữ Hán: 王猛, ? – ?) tự Thế Hùng, người Lâm Nghi, Lang Da , tướng lãnh nhà Trần đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Mãnh vốn
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Vương Mãnh** (chữ Hán: 王猛; tự là **Cảnh Lược** 景略; bính âm _Wáng Měng_; 325–375) là người dân tộc Hán, Tể tướng của nước Tiền Tần, thời Thập lục quốc. Tước hiệu chính thức của
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, ? – ?), người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Thanh là thành viên của
**Trận Bạch Đằng năm 1288** xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, là một trận đánh quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây
**Vương Lâm** (chữ Hán: 王琳, 526 – 573) là tướng lãnh nhà Lương và nhà Bắc Tề thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Lâm tự Tử Hành, người huyện
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trần Quốc Toản** (chữ Hán: 陳國瓚; (1267 - 15 tháng 07, 1285), hiệu là _Hoài Văn hầu_ (懷文侯), sau truy tặng tước vương, là một tông thất nhà Trần, sống ở thời kỳ trị vì
**Trần Quốc Toại** (chữ Hán: 陳國遂) hay **Trần Toại** (1254?-1277?), hiệu **Sầm Lâu**, được phong tước _Uy Văn vương_; là danh sĩ, là cháu họ và cũng là con rể vua Trần Thái Tông trong
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
**Trần Hãng** (; ?-1399), đôi khi gọi là **Trần Nguyên Hãng** (), là một tông thất và đại thần nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là cháu gọi Trần Minh Tông là ông
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự **Bang Kiệt**, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên. ## Thiếu thời Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo,
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Vương Trấn Ác** (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Trận Kunersdorf**, còn viết là **Trận Cunnersdorf** với bản thân ông cũng chỉ thoát nạn trong gang tấc. biểu dương sâu sắc sức mạnh của quân Nga. Ngoài ra, thắng lợi này cũng chứng tỏ
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Bàng Manh** (chữ Hán: 庞萌, ? – 30), người quận Sơn Dương , thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán. Ban đầu ông tham gia khởi nghĩa Lục Lâm, rồi quy thuận Lưu Tú,
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Vương tộc Lancaster** (tiếng Anh: _House of Lancaster_; tiếng Pháp: _Maison de Lancastre_) là một nhánh của Vương tộc Plantagenet (giữ ngai vàng của Anh gần 3,5 thế kỷ, từ năm 1154 đến năm 1485).
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Trận Tours** (ngày 10 tháng 10 năm 732), còn được gọi là **trận Poitiers** (phát âm tiếng Việt: **Poachiê**), tiếng - _ma‘arakat Balâṭ ash-Shuhadâ_) là một trận chiến diễn ra ở một địa điểm giữa
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Trận Phì Thủy** (Phì Thủy chi chiến: 淝水之戰) là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời Đông Tấn - Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và quân
**Vương Tư Chính** (chữ Hán: 王思政), không rõ năm sinh năm mất, người huyện Kì, Thái Nguyên , là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha** (; 25 tháng 9 năm 1808 - 29 tháng 9 năm 1833) là tên gọi chỉ chung các cuộc binh biến diễn ra ở châu
**Trận Tu Vũ** là một trận đánh để mở màn cho chiến dịch Hòa Bình (10/12/1951-25/2/1952) trong thời kì chiến tranh Đông Dương. Tên trận đánh lấy tên của địa điểm đã diễn ra nó,
**Mạc Đĩnh Chi** (chữ Hán: 莫挺之 1272 – 1346), tên tự là **Tiết Phu** (節夫), hiệu là **Tích Am** (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch
**Trận Denain** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, diễn ra vào ngày 24 tháng 7 năm 1712 giữa quân đội Pháp và quân Đồng minh Áo-Hà Lan. Kết
**Mái nhà** hay **nóc nhà** là bộ phận bao phủ phần trên cùng của một tòa nhà. Mái nhà được xây dựng, thiết kể để bảo vệ công trình nhà khỏi ảnh hưởng của thời
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Mãnh Lạp** (勐拉) còn gọi là **Mường La** là một trấn của huyện Kim Bình, châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đây là một hương trấn biên giới với Việt Nam của Trung
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà