✨Triệu Vô Tuất

Triệu Vô Tuất

Triệu Vô Tuất (chữ Hán: 赵毋卹; ?-425 TCN), tức Triệu Tương tử (赵襄子) là vị tông chủ thứ 9 của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu và là tổ tiên của nước Triệu sau này. Trong thời gian Triệu Vô Tuất cầm quyền, họ Triệu đã cùng hai họ Hàn, Ngụy tiêu diệt họ Trí, lập ra cục diện Ba nhà chia Tấn và dẫn đến việc thành lập của ba nước Hàn, Ngụy, Triệu sau này.

Lãnh đạo họ Triệu

Triệu Vô Tuất là con thứ của Triệu Ưởng, tức Triệu Giản tử, tông chủ thứ 8 của họ Triệu, do thứ thiếp sinh ra, do vậy ban đầu ông không được lập làm đích tử. Tuy nhiên Triệu Vô Tuất siêng năng chăm chỉ, được các chư thần ủng hộ. Gia thần Tử Khanh khuyên Triệu Ưởng lập Vô Tuất làm đích tử nối ngôi. Bấy giờ Triệu Ưởng khảo tra các con, Triệu Vô Tuất tỏ ra vượt trội hơn hẳn anh là Triệu Bá Lỗ, vì thế Triệu Ưởng bắt đầu chú ý đến ông.

Khi Vô Tuất đến tuổi trưởng thành, Triệu Ưởng lại khảo tra một lần nữa. Vô Tuất ứng đối rất trôi chảy. Triệu Ưởng cảm phục, lập tức phế Bá Lỗ lập Vô Tuất làm con đích.

Năm 476 TCN (Sử ký ghi 458 TCN), Triệu Ưởng bị bệnh nặng, gọi Triệu Vô Tuất đến căn dặn: "Ngày sau có sự nguy biến thì nên lánh vào Tấn Dương". Sau khi Triệu Ưởng chết, Vô Tuất lên kế tập tức Triệu Tương tử.

Diệt nước Đại

Chị của Triệu Vô Tuất là phu nhân của vua nước Đại, có quan hệ thân thích với họ Triệu. Năm 458 TCN, Triệu Vô Tuất muốn đánh nước Đại nên đã tới Hạ Ốc Sơn (nay ở đông bắc tỉnh Sơn Tây), mời vua Đại đến dự tiệc, vua Đại đồng ý. Vô Tuất đã sắp đặt bẫy mai phục, khi vua Đại đến thì trút rượu cho say, nhân đó giết chết vua Đại và các quan đi theo. Sau đó ông đem quân phạt Đại, chiếm toàn nước Đại, sáp nhập nước này lãnh thổ Triệu thị. Chị của Tương tử than khóc, kêu trời, rút trâm cài tóc ra tự sát.

Phế vua Tấn

Kể từ khi Triệu Ưởng qua đời, ngôi chính khanh nước Tấn thuộc về tông chủ họ Trí là Tuân Dao (tức Trí Bá Dao). Tuân Dao lấn át Tấn Xuất công, bỏ tước tử tự xưng bá. Năm 458 TCN, bốn họ Trí, Hàn, Ngụy, Triệu tự ý lấy đất cũ của họ Phạm và họ Trung Hàng chia nhau làm ấp phong, không cần lệnh của Tấn Xuất công. Tấn Xuất công bất bình, liên lạc với nước Tề và nước Lỗ cầu viện để tấn công 4 nhà. Tuy nhiên, ngay tại Tề và Lỗ, thực quyền cũng ở trong tay họ Điền và Tam Hoàn nên họ chỉ củng cố quyền lực mà không muốn giúp vua Tấn.

Năm 452 TCN, Triệu Vô Tuất liên hợp với ba họ còn lại khởi binh chống lại Tấn Xuất công. Tấn Xuất công không chống nổi, phải bỏ chạy sang nước Tề. Tuy nhiên khi chưa đi tới nơi thì mất giữa đường. Trí Bá lập chắt Tấn Chiêu công là Tấn Ai công nối ngôi.

Xung đột với Trí Bá

Sau khi nắm chức chính khanh, Tuân Dao (tức Trí Bá Dao) tập trung phát triển thế lực muốn một mình nuốt gọn cả nước Tấn. Tuy nhiên do còn ba họ Hàn, Ngụy, Triệu nên chưa dám ra tay.

Năm 466 TCN, Tuân Dao cùng Triệu Vô Tuất hợp binh đánh nước Trịnh, Tuân Dao nhường cho ông làm Tiên phong nhưng ông từ chối, trả quyền Tiên phong cho Tuân Dao. Tuân Dao có ý khinh thường, chê trách Triệu Ưởng thiếu sáng suốt mới lập Vô Tuất làm đích tử.

Năm 462 TCN, hai nhà một lần nữa đánh Trịnh, Trí Bá mời ông uống rượu nhưng Vô Tuất không đồng ý, Trí Bá lấy rượu đổ vào mặt ông. Gia thần khuyên ông giết Tuân Dao để rửa nhục nhưng ông cố nhịn.

Năm 455 TCN, Tuân Dao dùng kế "tằm ăn lá dâu", giả mệnh Tấn Ai công, lấy cớ đem quân tranh bá, ép ba nhà Hàn, Ngụy, Triệu cắt 100 dặm đất sung công. Ngụy Câu và Hàn Hổ sợ Trí Bá, vội đem sổ sách và bản đồ 100 dặm đất dâng nộp. Triệu Vô Tuất không chấp nhận yêu cầu của Tuân Dao, nói:"Đất đai là của tiền nhân để lại, sao có thể dễ dàng dâng cho người". Tuân Dao tức giận, ép Hàn và Ngụy hợp sức với mình để đánh Triệu Vô Tuất.

Năm 455 TCN, Trí bá dẫn trung quân, Hàn Hổ dẫn hữu quân, Ngụy Câu dẫn tả quân cùng tiến đánh Triệu. Triệu Vô Tuất nhớ lời cha dặn, rút về Tấn Dương cố thủ. Triệu Vô Tuất phòng thủ chắc chắn, Ba họ Trí, Hàn, Ngụy vây Tấn Dương hơn 1 năm chưa hạ được. Tuân Dao dẫn nước Tấn Thủy (sông Phần) rót vào thành. Nước ngập sắp tới mặt thành, dân chúng phải trèo lên mái nhà tránh lụt. Trong thành hết lương, rất nguy cấp, phải đổi con cho nhau ăn thịt. Trong tình hình đó, thủ hạ của Vô Tuất là Trương Mạnh Đàm bàn kế ly gián 2 họ Hàn, Ngụy với họ Trí. Trương Mạnh Đàm nhân ban đêm bí mật trèo ra ngoài thành, đến trại Hàn Hổ và Ngụy Câu phân tích lợi hại, thuyết phục hai họ phản Trí Bá để tránh bị diệt trong tương lai. Hàn Hổ và Ngụy Câu vốn phải cắt đất cho Tuân Dao đã bất bình, lại vì đất phong của mình cũng có sông chảy qua nên sợ sau này sẽ chung cảnh ngộ như họ Triệu, nhân đó bèn đồng tình phản lại họ Trí.

Năm 453 TCN, ba họ Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh úp Tuân Dao, cùng nhau phá đe phòng, tháo nước ngược vào chỗ Tuân Dao, giết chết Tuân Dao. Ba họ cùng nhau chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn.

Vụ thích sát của Dự Nhượng

Dự Nhượng vốn là người nước Tần. Trước theo họ Phạm và họ Trung Hàng nhưng đều chỉ là bậc khách thường, không ai biết tới. Họ Phạm và họ Trung Hàng bị diệt, Dự Nhượng tới thờ Trí Dao, được khoản đãi như bậc thượng khách.

Sau khi Trí Dao chết, Dự Nhượng muốn báo thù, lập mưu giết Triệu Vô Tuất. Triệu Vô Tuất biết việc ấy nhưng tha cho Dự Nhượng.

Dự Nhượng không bỏ cuộc, tự hủy hoại dung nhan và giọng nói khác đi, giả làm ăn xin ngoài chợ. Khi Triệu Vô Tuất ra ngoài, Dự Nhượng nấp dưới cầu định thừa cơ hành thích, tuy nhiên khi xa giá của Tương tử tới nơi thì con ngựa của Tương tử bất chợt sợ hãi, Triệu Tương tử đoán ngay rằng đây là Dự Nhượng đang định hành thích mình. Dự Nhượng bị bắt. Triệu Vô Tuất hỏi rằng: "Trước kia ông theo Phạm thị và Trung Hàng thị, mà cả hai họ đó đều bị Trí Dao giết hết, đã không đến báo thù Trí Dao mà lại còn vì hắn mà đến hành thích ta". Dự Nhượng trả lời rằng: "Tôi thờ Phạm thị và Trung Hàng thị, họ chỉ xem tôi là hạng người thường nên tôi báo đáp họ theo lối người thường. Còn như Trí Bá đối đãi với tôi như người quốc sĩ, nên tôi phải báo thù theo lối quốc sĩ".
Triệu Tương tử nghe vậy biết là Dự Nhượng vẫn quyết tạm giết mình, không thể tha được nữa, đành phải cho quân sĩ bao vây lại. Trước lúc chết, Dự Nhượng xin ông đưa áo đang mặc để ông đâm vào đó cho thỏa lòng báo thù, chết khỏi ân hận. Triệu Vô Tuất cảm động nghe theo, Dự Nhượng bèn đâm vào đó ba lần rồi đâm cổ tự vẫn. Triệu Vô Tuất cảm động đến rơi nước mắt.

Qua đời

Triệu Vô Tuất thấy anh là Triệu Bá Lỗ vốn là đích trưởng mà bị phế, bèn tuân theo tông pháp, lập con Bá Lỗ là Chu làm đích tử, phong làm Ư Thành đại quân. Nhưng Triệu Chu lại mất sớm, Triệu Vô Tuất mới lập con Chu là Triệu Hoán làm đích tử.

Năm 425 TCN, Triệu Vô Tuất chết, con ông là Triệu Gia đoạt ngôi của Triệu Hoán, tự lập lên kế tập tức Triệu Hoàn tử.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triệu Vô Tuất** (chữ Hán: 赵毋卹; ?-425 TCN), tức **Triệu Tương tử** (赵襄子) là vị tông chủ thứ 9 của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu và là
**Triệu Hoán** (chữ Hán: 趙浣; ?-424 TCN), tức **Triệu Hiến tử** (趙獻子), Triệu Hiến hầu (趙獻侯), là tông chủ thứ 11 của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu.
**Triệu** (Phồn thể: 趙國, Giản thể: 赵国) là một quốc gia chư hầu có chủ quyền trong thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Triệu là nước có vai trò đáng kể trong giai
**Triệu Ưởng** (chữ Hán: 趙鞅; ?-475 TCN), tức **Triệu Giản tử** (趙簡子) là vị tông chủ thứ 8 của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn và là tổ tiên của quân chủ
**Triệu Gia** (chữ Hán: 趙嘉; ?-424 TCN), tức **Triệu Hoàn tử** (趙桓子) là tông chủ thứ 10 của họ Triệu, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu. Ông là con trai
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu
**Triều Tiên Túc Tông** (chữ Hán: 朝鲜肃宗, Hangul: 조선 숙종; 7 tháng 10 năm 1661 – 8 tháng 6 năm 1720) là Quốc vương thứ 19 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1674
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
Một đòn đá trong làng võ Tân Khánh Bà Trà. **Võ thuật Việt Nam** là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
**Võ Duy Dương** (; Hán Việt: _Vũ Duy Dương_; 1827-1866), còn gọi là **Thiên hộ Dương** (千戶楊, do giữ chức Thiên hộ), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở Đồng
**Võ Văn Giải** (chữ Hán: _武 文 解_, ?-1853), quê ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, là một vị võ quan, đại danh thần triều Nguyễn. Ông làm quan trãi qua các triều Gia
**Võ Di Nguy** hay **Vũ Di Nguy** (Chữ Hán: 武彝巍; 1745 - 1801) là một tướng lãnh dưới quyền chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp **Võ Di Nguy** là người huyện
**Võ Trọng Bình** (武仲平, 1808-1898), hay **Vũ Trọng Bình**, tự **Sư Án**, là một đại thần thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông làm quan trải chín đời vua, nổi tiếng là người
**Tuân Dao** (chữ Hán: 荀瑶, bính âm: Xún Yáo,506 TCN-453 TCN), hay **Trí Dao** (知瑤), **Trí bá Dao** (知伯瑤), **Trí Tương tử** (知襄子), là vị tông chủ thứ sáu của họ Trí, một trong Lục
**Hòa ước Nhâm Tuất** là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên giữa Đại Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Nhà Nguyễn phải cắt nhượng lãnh thổ 3 tỉnh Nam Kỳ gồm Biên Hòa,
**Ấu Triệu** (? - 1910) tên thật **Lê Thị Đàn**, là một liệt nữ cách mạng trong Duy Tân hội và Phong trào Đông du ở Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Lê
::_Xem các công trình có tên_ **Võ miếu** _tại bài Võ miếu (định hướng)_ Bia đá tại Võ miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong [[quần thể di tích cố đô
**Ngụy Câu** (Trung văn giản thể: 魏驹, phồn thể: 魏駒, bính âm: Wèi Jū), tức **Ngụy Hoàn tử** (魏桓子), là vị tông chủ thứ 9 của họ Ngụy, một trong Lục khanh nước Tấn thời
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
**Hàn Hổ** (chữ Hán: 韓虎, tại vị: ? – 425 TCN), tức **Hàn Khang tử** (韓康子), tên thật là **Cơ Hổ** (姬虎), là vị tông chủ thứ 10 của họ Hàn giữ chức quan khanh
phải|Bản đồ thời Chiến Quốc. phải|Bản đồ thời chiến quốc năm 260 TCN. thumb|right|Giản đồ các nước thời Chiến Quốc Thời đại **Chiến Quốc** () kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi
**Võ Thị Duyên** (chữ Hán: 武氏緣, 20 tháng 6 năm 1828 - 3 tháng 6 năm 1902) hay còn gọi **Lệ Thiên Anh hoàng hậu** (儷天英皇后) là chính thất của Nguyễn Dực Tông Tự Đức,
**Mẫn Tế** (tiếng Hàn: 민제, chữ Hán: 閔霽, 1339 - 1408) là một quan thần người Triều Tiên thời mạt kỳ Cao Ly và sơ kỳ nhà Triều Tiên. Con gái ông, Nguyên Kính Vương
Phong cảnh đầm Cút và lối vào đền Thung Lá, nơi thờ Quốc Mẫu Đàm Thị Phong cảnh hồ Đàm Thị ở [[chùa Bái Đính nhìn từ trên cao]] **Đinh Triều Quốc Mẫu** (890 -
**Lục khanh** (chữ Hán: _六卿_) là sáu gia tộc quyền thần giữ chức _khanh_ (卿), được hưởng thế tập ở nước Tấn thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sự hùng mạnh của nước
phải|nhỏ|Hội quán Quảng Triệu **Hội quán Quảng Triệu** (chữ Hán: 廣肇會館), còn được gọi là **Miếu Thiên Hậu** hay **Chùa Bà Cầu Ông Lãnh**, là một cơ sở tín ngưỡng tại địa chỉ số 156
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Phạm Gia Triệu** (15 tháng 1 năm 1918 – 13 tháng 6 năm 1990) là một bác sĩ phẫu thuật thần kinh, đồng thời là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt
**_Quốc triều hội điển_** (國朝會典), hay **_Lê triều hội điển_** (黎朝會典) là một cuốn sách thuộc thể loại hội điển, bắt đầu được biên soạn bởi tác giả Phạm Đình Hổ, ghi chép điển pháp
**Tấn Ai công** (chữ Hán: 晋哀公, cai trị: 457 TCN – 440 TCN hoặc 451 TCN - 434 TCN), hay **Tấn Kính công** (晋敬公), **Tấn Ý công** (晋懿公), tên thật là **Cơ Kiêu** (姬骄), là
**Võ Thị Viên** (chữ Hán: 武氏媛; 5 tháng 11 năm 1815 – 22 tháng 3 năm 1880), còn có húy là **Viên**, phong hiệu **Nhất giai Lương phi** (一階良妃), là một cung phi của vua
**Lưu Phức** (chữ Hán: 劉馥; ?-208) là quan cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới quyền quân phiệt Tào Tháo. ## Sự nghiệp Lưu Phức có tên tự là
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Đại Vũ Thần Vương** (4-44, trị vì 18-44)đọc là Muhyul, là vị vua thứ ba của Cao Câu Ly - một trong ba quốc gia của thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên. Vua Thần Vương
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
**Đại Quang Hiển** (, ? ~ ?) là vị thái tử cuối cùng của vương quốc Bột Hải, là con trai cả của quốc vương Đại Nhân Soạn. Ông đã lãnh đạo những người tị
nhỏ|phải|Chữ Doãn. **Doãn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 尹, Bính âm: Yin) và Triều Tiên (Hangul: 윤, Romaja quốc ngữ:
**Trương Minh Giảng** (chữ Hán: 張明講; 1792-1841) là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Dương Không Lộ** (楊空路, 1016-1094), húy **Dương Minh Nghiêm**, hiệu **Khổng Lồ** đọc tránh **Không Lộ** pháp hiệu là **Thông Huyền chân nhân**, **Vân Du Tường** quê gốc làng Giao Thủy (sau đổi là làng
phải **Nguyễn Bá Nghi** (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là **Sư Phần**, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều người biết đến từ khi được cử vào Nam thay thế
**Tống Phúc Lương** (chữ Hán: 宋福樑, thường đọc **Tống Phước Lương**, 1771 - 1834) là ngoại thích, tướng lĩnh phục vụ cho dòng họ Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Phúc Thuần cho đến đời vua
nhỏ|phải|Bản đồ Nhật Bản sau khi sát nhập Hàn Quốc **Sự kiện Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên** ( _kankoku heigo_, ) diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 1910 dựa trên "Hiệp ước
Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]] **Thoại Ngọc hầu** (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là **Nguyễn Văn Thoại** (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Tôn Thất Lương** (1793 - 1846) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. ## Cuộc đời Tôn Thất Lương thuộc dòng thứ bảy tôn thất nhà Nguyễn. Lúc nhỏ có học hạnh,