✨Lục khanh
Lục khanh (chữ Hán: 六卿) là sáu gia tộc quyền thần giữ chức khanh (卿), được hưởng thế tập ở nước Tấn thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sự hùng mạnh của nước Tấn thời Xuân Thu có đóng góp không nhỏ của các gia tộc này, không chỉ với chính trường nội bộ nước Tấn mà còn cả quan hệ giữa các nước chư hầu đương thời. Tuy nhiên, chính ảnh hưởng quá lớn của các gia tộc này đối với chính trường nước Tấn, cũng dẫn đến sự diệt vong của nước Tấn, hình thành các quốc gia Tam Tấn: Hàn - Triệu - Ngụy.
Cơ sở hình thành
Theo chế độ phân phong của nhà Chu, các con cháu của các quân chủ chư hầu không có quyền thừa kế ngôi vị, vẫn có thể được phong tại các "thái ấp", được quyền thế tập, hình thành những tiểu quốc phụ dung cho quốc gia chư hầu đó, gọi là các "công thất".
Ngoài ra, theo quan chế nhà Chu, triều đình đứng đầu bởi quân chủ, dưới có các quan, xếp theo thứ bậc là Khanh (卿), Đại phu (大夫), Sĩ (士), gọi gộp là "khanh sĩ". Các khanh sĩ ở các nước chư hầu được hưởng lợi tức từ các "thực địa" (đất ăn lộc) do quân chủ ban cho, thuộc tầng lớp quý tộc, có quyền truyền thừa, hình thành những gia tộc có thế lực, gọi là các "tư gia".
Trong đó, Khanh là quan chức cao nhất, có vùng "thực địa" rộng nhất, hưởng lộc bằng 1/10 vị quân chủ..
Binh lực át thiên tử
Theo binh chế nhà Chu, quân đội được chia làm ngũ (5 lính), lượng (5 ngũ), tốt (4 lượng), lữ (5 tốt), sư (5 lữ), quân (5 sư). Về lý thuyết, mỗi quân có 12.500 người. Theo nguyên tắc, thiên tử có sáu quân, vạn cỗ chiến xa; các chư hầu có ba hoặc hai, một quân và có ngàn cỗ, trăm cỗ chiến xa hay vài chục cỗ chiến xa tùy theo lớn nhỏ.
Tuy nhiên, vào thời Đông Chu, thế lực của Thiên tử nhà Chu đã suy yếu. Với sự sút giảm lớn về đất đai, chỉ còn giới hạn ở Lạc Dương và các vùng xung quanh, triều đình Chu không còn có thể duy trì sáu quân thường trực (lục quân), nên phải cần sự trợ giúp của các chư hầu hùng mạnh xung quanh để bảo vệ họ khỏi các cuộc cướp bóc và để giải quyết các cuộc tranh giành quyền lực bên trong.
Nước Tấn để giữ được ngôi vị bá chủ luôn phải duy trì một đội quân hùng mạnh để can thiệp vào các nước chư hầu khác khi cần và nhất là ngăn ngừa sự tranh chấp ngôi bá chủ của nước Sở, nước Tề. Thời Tấn Vũ công đã tổ chức đạo quân, đến thời Tấn Hiến công mở rộng thành 2 đạo để phục vụ việc xâm chiếm mở rộng lãnh thổ. Năm 633 TCN, Tấn Văn công mới tổ chức thành 3 đạo quân thường trực, phân thành Thượng - Trung - Hạ. Mỗi đạo do một Tướng quân chỉ huy và một Tá quân làm phụ tá. Với đội quân thường trực này, nước Tấn có một binh lực chính quy hùng hậu, tạo sức mạnh để tranh bá chư hầu.
Khác với các chư hầu khác bấy giờ, việc chỉ huy các đạo quân ở nước Tấn không giao cho công thất để tránh nội loạn mà giao cho các tư gia, các chỉ huy được lựa chọn theo khả năng, có thực quyền chủ động trên chiến trường, đồng thời cũng tham gia chấp chính trong triều. Trong các đạo quân thì đạo Trung quân quan trọng nhất, vì vậy chỉ huy đạo quân này được xếp vào bậc Khanh. Trung quân tướng trong triều đứng ở bậc Chính khanh, nắm quân sự gọi là Nguyên soái, nắm quyền cao nhất về chính trị quân sự chỉ sau quân chủ. Trung quân tá cũng xếp vào bậc Khanh, gọi là Thứ khanh. Chỉ huy các đạo quân còn lại cũng được xếp vào bậc Đại phu. Cách tổ chức này bộ máy chính trị quân sự hợp nhất này được gọi là Nhị khanh Tứ đại phu.
Chính khanh Nguyên soái đầu tiên của nước Tấn là Khích Hộc (郤縠, còn đọc là Khước Cốc). Các chỉ huy còn lại được xếp theo thứ bậc gồm Khích Trăn (郤溱, còn đọc là Khước Trăn) là Thứ khanh Trung quân tá, Hồ Mao làm Thượng quân tướng, Hồ Yển Thượng quân tá, Loan Chi Hạ quân tướng và Tiên Chẩn Hạ quân tá. Ngoài ra, Tấn Văn công còn tôn Triệu Thôi lên bậc Khanh, làm cố vấn, Tuân Lâm Phụ, Ngụy Thối (魏焠, còn đọc là Ngụy Thù) làm hộ vệ. Tuy nhiên, trước khi quân Tấn giao chiến với quân Sở tại trận Thành Bộc thì Khích Hộc ốm chết. Tiên Chẩn do có công lấy thành Ngũ Lộc của nước Vệ, được Tấn Văn công thăng làm Chính khanh Nguyên soái, Tư Thần thay làm Hạ quân tá.
Sau trận Thành Bộc, uy thế nước Tấn lên cao, bắt đầu lấn át nhà Chu. Do khi phát động chiến tranh, hầu như toàn bộ quân đội nước Tấn đều đi viễn chinh, trong nước bỏ trống. Do vậy, trước chiến dịch công hãm nước Trịnh, Tấn Văn công cho lập thêm 3 đạo quân nữa để chuyên việc viễn chinh, nhưng để tránh tiếng có 6 quân ngang với thiên tử nhà Chu, nên gọi là Tam hành, cho Tuân Lâm Phụ làm Trung hành tướng. Vì vậy, về sau gia tộc của Tuân Lâm Phụ phát triển thành Trung Hành (中行) thị. Hai đạo còn lại do Đồ Kích làm Hữu hành tướng và Tiên Miệt làm Tả hành tướng.. Thế lực vua Tấn suy trong khi lục khanh càng mạnh.
Lục khanh tương tranh
Đi đôi với cuộc đấu tranh với các quý tộc cũ "công thất", các quý tộc mới "tư gia" cũng chia rẽ và đấu tranh với nhau trên chính trường.
Đương thời, các thế lực mới nổi đều áp dụng những biện pháp đổi mới cho phát triển sản xuất, nhưng mức độ và phương pháp thực hiện thì có sự khác nhau khá lớn.
Về chế độ ruộng đất, lục khanh đều phá bỏ chế độ cũ trước đây: "100 bước bằng 1 mẫu". Nhưng quy định mới mà họ đặt ra cũng khác nhau. Họ Phạm và họ Trung Hàng quy định "1 mẫu bằng 160 bước", họ Trí quy định "1 mẫu bằng 180 bước" còn họ Hàn, họ Triệu và họ Ngụy quy định "1 mẫu bằng 200 bước". Do diện tích canh tác của người lao động có tiêu chuẩn nhất định, nếu quy định diện tích từng mẫu lớn thì canh tác được nhiều, có lợi cho sản xuất.
Giữa các họ lục khanh dần dần nảy sinh mâu thuẫn. Năm 497 TCN thời Tấn Định công, Triệu Ưởng đến Hàm Đan, gặp tướng trấn thủ là Triệu Ngọ vốn là người cùng họ xa, hỏi xin 500 hộ dân mà Vệ Linh công đã dâng nộp. Triệu Ngọ ban đầu bằng lòng, sau nghe thủ hạ can ngăn, bèn thác cớ không đáp ứng.
Triệu Ưởng giận Triệu Ngọ bèn mang quân tấn công Hàm Đan. Triệu Ngọ là cháu gọi Tuân Dần (Trung Hàng Dần) bằng cậu; nhà Tuân Dần lại thông gia với Phạm (Sĩ) Cát Xạ. Vì vậy Tuân Dần và Sĩ Cát Xạ ủng hộ Triệu Ngọ, bèn cùng nhau đánh Triệu Ưởng. Triệu Ưởng chạy về cố thủ ở Tấn Dương.
Theo luật nước Tấn, người làm loạn đầu tiên phải bị tử hình, do đó họ Phạm và họ Trung Hàng được Tấn Định công ủng hộ, mang quân vây Tấn Dương. Nhưng các đại phu khác là Trí (Tuân) Lịch, Hàn Bất Tín, Ngụy Xỉ lại có tư thù với họ Phạm và họ Trung Hàng, bèn mang quân giúp Triệu Ưởng.
Thế 4 họ mạnh lên, Tấn Định công lại ngả theo phe bốn họ Hàn, Ngụy, Trí, Triệu. Tuân Dần và Sĩ Cát Xạ thua trận phải bỏ chạy về thành Triều Ca. Hàn Bất Tín và Ngụy Xỉ xin hộ với Tấn Định công về lỗi khơi mào loạn của Triệu Ưởng. Định công bằng lòng tha tội Triệu Ưởng, cho giữ chức như cũ.
Nước Tề thấy Tấn loạn, Tề Cảnh công sai người chở thóc đến Triều Ca giúp Phạm Cát Xạ và Tuân Dần. Triệu Ưởng ngăn chặn không được.
Năm 494 TCN, bốn họ Ngụy, Hàn, Trí, Triệu hạ được thành Triều Ca. Tuân Dần và Phạm Cát Xạ chạy trốn sang Hàm Đan.
Năm 490 TCN, Triệu Ưởng lại hạ Hàm Đan, họ Phạm và Trung Hàng chạy sang Bách Nhân. Triệu Ưởng lại mang quân vây bức thành Bách Nhân, Tuân Dần và Phạm Cát Xạ chạy sang nước Tề. Từ đó quyền hành nước Tấn trong tay 4 họ thượng khanh Trí, Hàn, Triệu, Ngụy.
Liên minh ngăn chặn nỗ lực của vua Tấn
Trong số 4 họ thì họ Trí nắm quyền lớn nhất, nên được gọi là 'Bá', hàm ý đứng đầu trong số các quan Khanh nước Tấn.
Sau khi họ Phạm và họ Trung Hàng bị diệt, đất đai của hai họ theo lẽ nên thuộc về vua Tấn. Tuy nhiên, năm 458 TCN, Trí Dao cùng 3 họ kia tự ý chia nhau phong ấp của họ Phạm và Trung hàng, không đếm xỉa gì đến Tấn Xuất công. Tấn Xuất Công yếu thế, đất đai ít ỏi, không ngăn được sự chuyên quyền của bốn nhà, nên liên lạc tìm ngoại viện từ các nước Tề, Lỗ để tiêu diệt bốn quan Khanh. Tuy nhiên, vào thời kỳ nào, ở Tề và Lỗ tình hình cũng không sáng sủa hơn. Tề bị lũng đoạn bởi quyền lực các Đại phu, trước có họ Thôi, họ Khánh, sau đến họ Điền; còn Lỗ bị lũng đoạn bởi Tam quý (Mạnh tôn thị, Thúc tôn thị, và Quý tôn thị). Các gia tộc quyền thần giữa các nước còn ngầm liên kết, hỗ trợ nhau. Năm 452 TCN, xung đột bùng phát, bốn nhà tấn công Tấn Xuất Công. Tấn Xuất Công bỏ nước trốn sang Tề, chết trên đường bỏ trốn.
Trí Bá lập chắt của Tấn Chiêu công là Cơ Kiêu lên ngôi, tức là Tấn Ai công. Từ đó quyền hành vua Tấn chẳng còn gì, chỉ ngồi làm vì. Tồn tại được thêm trăm năm thì chính thức bị xóa sổ, khi ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy được nhà Châu liệt vào hàng chư hầu. Đó là sự kiệnHàn, Triệu, Ngụy chia ba nước Tấn.
Tông chủ Lục khanh
Triệu thị
Triệu Túc (?-?)
Triệu Thành tử Triệu Thôi (636 TCN-622 TCN)
Triệu Tuyên tử Triệu Thuẫn (621 TCN-601 TCN)
Triệu Trang tử Triệu Sóc (600 TCN-587 TCN)
Triệu Văn tử Triệu Vũ (583 TCN-541 TCN)
Triệu Cảnh thúc Triệu Thành (540 TCN-518 TCN)
Triệu Giản tử Triệu Ưởng (517 TCN-476 TCN)
Triệu Tương tử Triệu Vô Tuất (475 TCN-425 TCN)
Triệu Hoàn tử Triệu Gia (424 TCN)
Triệu Hiến tử Triệu Hoán (423 TCN-409 TCN)
Triệu Tịch (tức Triệu Liệt hầu), năm 403 TCN được phong chư hầu
Ngụy thị
Tất Vạn (?-?)
Ngụy Mang Quý (?-?)
Ngụy Vũ tử Ngụy Sưu (?-?)
Ngụy Điệu tử Ngụy Khỏa (?-?)
Ngụy Chiêu tử Ngụy Giáng (?-556 TCN)
Ngụy Hiến tử Ngụy Thư (555 TCN-509 TCN)
Ngụy Giản tử Ngụy Thủ (509 TCN-?)
Ngụy Tương tử Ngụy Mạn Đa (?-482 TCN)
Ngụy Hoàn tử Ngụy Câu (481 TCN-446 TCN)
Ngụy Tư (tức Ngụy Văn hầu), năm 403 TCN được phong chư hầu
Hàn thị
Hàn Vũ tử Hàn Vạn
Hàn Cầu Bá
Hàn Giản
Hàn Tử Dư
Hàn Hiến tử Hàn Quyết
Hàn Tuyên tử Hàn Khởi (?-514 TCN)
Hàn Trinh tử Hàn Tu (513 TCN-?)
Hàn Giản tử Hàn Bất Tín
Hàn Trang tử Hàn Canh
Hàn Khang tử Hàn Hổ (?-425 TCN)
Hàn Vũ tử Hàn Khải Chương (424 TCN-409 TCN)
Hàn Kiền, tức Hàn Cảnh hầu, năm 403 TCN được phong chư hầu
Trí thị (năm 453 TCN diệt vong)
Trí Trang tử Tuân Thủ
Trí Vũ tử Tuân Oanh (?-560 TCN)
Trí Trang tử Tri Sóc (truy tôn)
Trí Điệu tử Tuân Doanh (559 TCN-532 TCN)
Trí Văn tử Tuân Lịch (531 TCN-493 TCN)
Trí Tuyên tử Tuân Thân (492 TCN-?)
Trí Tương tử Tuân Dao, (?-453 TCN)
Trung Hàng thị (năm 490 TCN bị diệt)
Trung Hàng Hoàn tử Tuân Lâm Phủ (632 TCN-593 TCN)
Trung Hàng Tuyên tử Tuân Canh (592 TCN-576 TCN)
Trung Hàng Hiến tử Tuân Yển (575 TCN-554 TCN)
Trung Hàng Mục tử Tuân Ngô (553 TCN-?)
Trung Hàng Văn tử Tuân Dần (?-490 TCN)
Phạm thị
Phạm Vũ tử Sĩ Hội (593 TCN-?)
Phạm Văn tử Sĩ Tiếp (?-575 TCN)
Phạm Tuyên tử Sĩ Mang (574 TCN-547 TCN)
Phạm Hiến tử Sĩ Ưởng (546 TCN-?)
Phạm Chiêu tử Sĩ Cát Xạ (?-490 TCN)
Ghi âm ngày 2 tháng 9 năm 1945]] **Ngày Quốc khánh