✨Tuân Dao

Tuân Dao

Tuân Dao (chữ Hán: 荀瑶, bính âm: Xún Yáo,506 TCN-453 TCN), hay Trí Dao (知瑤), Trí bá Dao (知伯瑤), Trí Tương tử (知襄子), là vị tông chủ thứ sáu của họ Trí, một trong Lục khanh của nước Tấn dưới thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.

Tuân Dao là con của Tuân Thân, tông chủ thứ năm của họ Trí.

Thế tập họ Trí

Cha của Tuân Dao là Tuân Thân (Trí Tuyên tử) thấy Tuân Dao tài giỏi hơn cả, định lập làm thế tử, người trong họ là Trí Quả khuyên can, nói với Tuân Thân tuy Tuân Dao có phong thái bất phàm, giỏi tiễn thuật, kĩ nghệ xuất chúng, giỏi biện luận, kiên nghị quả quyết nhưng tính tình tàn bạo, cho rằng năm điều tốt không thể sánh với một điều xấu, khuyên Tuân Thân nên lập con trưởng là Trí Tiêu nhưng Tuân Thân không nghe, lập Tuân Dao làm thế tử.

Sau khi Tuân Thân qua đời, Tuân Dao lên thế tập.

Sau khi hai họ Phạm và Trung Hàng bị diệt, thực quyền nước Tấn nằm trong tay 4 họ đại phu Trí, Hàn, Triệu, Ngụy, vua Tấn bị bốn họ lấn át. Năm 475 TCN, Chính khanh Trung quân tướng Triệu Ưởng qua đời, Tuân Dao nối chức chính khanh, từ đó họ Trí nắm quyền lớn nhất ở nước Tấn.

Quan hệ với chư hầu

Năm 472 TCN, Tuân Dao đem quân đánh nước Tề và nước Trịnh, giành chiến thắng. Năm 466 TCN, Tuân Dao cùng Triệu Vô Tuất hợp binh đánh nước Trịnh, Tuân Dao nhường cho Triệu Vô Tuất làm Tiên phong nhưng Vô Tuất từ chối, trả quyền Tiên phong cho Tuân Dao. Tuân Dao có ý khinh thường, chê trách Triệu Ưởng thiếu sáng suốt mới lập Vô Tuất làm đích tử.

Năm 464 TCN, Tuân Dao lại đem quân đánh Trịnh, Trịnh cầu cứu nước Tề, quân Tề bèn đem quân cứu Trịnh, buộc Tuân Dao lui quân.

Năm 462 TCN, Tuân Dao lại cùng họ Triệu một lần nữa đánh Trịnh. Trong lễ ra quân, ông mời Triệu Vô Tuất uống rượu nhưng Vô Tuất không đồng ý, Trí Bá lấy rượu đổ vào mặt Triệu Vô Tuất. Gia thần họ Triệu khuyên Triệu Vô Tuất giết Tuân Dao để rửa nhục nhưng Vô Tuất cố nhịn.

Năm 457 TCN, Tuân Dao đem quân đánh nước Vệ.

Lấn át vua Tấn

Sau khi họ Phạm và họ Trung Hàng bị diệt, đất đai của hai họ thuộc về vua Tấn. Năm 458 TCN, Tuân Dao cùng 3 họ kia tự ý lấy đất cũ của họ Phạm và họ Trung Hàng chia nhau làm ấp phong, không cần lệnh của Tấn Xuất công. Tấn Xuất công bất bình, sai sứ đi liên lạc với các nước Tề và Lỗ cầu viện để tấn công 4 họ đại phu.

Tuy nhiên, tại các nước Tề và Lỗ lúc đó, quyền hành cũng nằm trong tay các quyền thần nên họ chỉ củng cố quyền lực mà không muốn giúp vua Tấn.

Năm 457 TCN (hay 452 TCN), Tuân Dao cùng ba họ còn lại khởi binh chống lại Tấn Xuất công. Tấn Xuất công không chống nổi, phải bỏ chạy sang nước Tề và mất giữa đường.

Tấn Chiêu công có người con út tên là Ung, được đặt thụy hiệu là Đái Tử. Đái Tử sinh ra Cơ Kỵ. Cơ Kỵ chơi thân với Trí Bá và mất sớm. Trí Bá muốn độc chiếm nước Tấn nhưng chưa dám, lập con Kỵ là Cơ Kiêu lên ngôi tức Tấn Ai công.

Sau khi phế Tấn Xuất công, Tuân Dao tự xưng tước bá, trong khi ba họ còn lại chỉ có tước tử.

Hợp binh đánh họ Triệu

Năm 457 TCN, Tuân Dao cùng Ngụy Câu và Hàn Hổ dự yến, động chạm đến tên húy của Hàn Hổ, gia thần họ Hàn Đoạn Quy khuyên ngăn Tuân Dao nhưng ông không nghe, còn sỉ nhục Đoàn Quy.

Tuân Dao muốn lần lượt thôn tính 3 họ Hàn, Ngụy, Triệu để chiếm cả nước Tấn. Năm 455 TCN, Tuân Dao dùng kế "tằm ăn lá dâu", giả mệnh Tấn Ai công, lấy cớ đem quân tranh bá, ép ba nhà Hàn, Ngụy, Triệu cắt 100 dặm đất sung công. Ngụy Câu và Hàn Hổ sợ Trí Bá, vội đem sổ sách và bản đồ 100 dặm đất dâng nộp. Triệu Vô Tuất không chấp nhận yêu cầu của Tuân Dao, nói:"Đất đai là của tiền nhân để lại, sao có thể dễ dàng dâng cho người". Tuân Dao tức giận, ép Hàn và Ngụy hợp sức với mình để đánh Triệu Vô Tuất.

Năm 455 TCN, Tuân Dao dẫn trung quân, Hàn Hổ dẫn hữu quân, Ngụy Câu dẫn tả quân cùng tiến đánh họ Triệu. Triệu Vô Tuất rút về Tấn Dương cố thủ.

Thất bại và bị giết

Triệu Vô Tuất phòng thủ chắc chắn, ba họ Trí, Hàn, Ngụy vây Tấn Dương hơn 1 năm chưa hạ được. Tuân Dao bèn dùng kế dẫn nước Tấn Thủy (sông Phần) rót vào thành. Nước ngập sắp tới mặt thành, dân chúng phải trèo lên mái nhà tránh lụt. Trong thành hết lương, rất nguy cấp, phải đổi con cho nhau ăn thịt. Tuân Dao thấy công trình dẫn nước tiến hành hoàn mĩ, tỏ ra đắc ý, Ngụy Câu và Hàn Hổ thấy thế là sợ ngày sau cũng sẽ bị Tuân Dao dẫn nước vào đánh mình, từ đó có ý phản họ Trí. Trong tình hình đó, thủ hạ của Vô Tuất là Trương Mạnh Đàm bàn kế ly gián 2 họ Hàn, Ngụy với họ Trí. Trương Mạnh Đàm nhân ban đêm bí mật trèo ra ngoài thành, đến trại Hàn Hổ và Ngụy Câu phân tích lợi hại, thuyết phục hai họ phản Trí Bá để tránh bị diệt trong tương lai. Hàn Hổ và Ngụy Câu vốn phải cắt đất cho Tuân Dao đã bất bình, lại vì đất phong của mình cũng có sông chảy qua nên sợ sau này sẽ chung cảnh ngộ như họ Triệu, nhân đó bèn đồng tình phản lại họ Trí.

Năm 453 TCN, ba họ Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh úp Tuân Dao, giết chết binh lính canh đê của họ Trí, tháo nước ngược vào chỗ Tuân Dao. Quân sĩ họ Trí hoảng hốt, cùng lúc Hàn, Ngụy hai nhà cùng tấn công Tuân Dao, họ Triệu từ trong thành cũng nhân đó phản công, Tuân Dao đại bại, bị Triệu Vô Tuất giết chết. Vô Tuất ra lệnh giết cả tộc họ Trí, rồi đem thủ cấp của ông ngâm rượu để làm nhục. Một số tộc nhân như Tuân Khai, Tuân Khoan trốn sang nước Tần, còn Trí Quả biết được họ Trí sẽ mất trong tay Trí Dao, đã đổi sang họ khác nên thoát chết.

Tuân Dao có một người gia thần là Dự Nhượng, sau khi họ Trí bị diệt, Dự Nhượng ba lần mưu sát Triệu Vô Tuất để báo thù cho ông nhưng đều thất bại, cuối cùng tự sát.

Gia đình

Cha: Tuân Thân (Trí Tuyên tử) Anh em: Trí Tiêu *Con cái: Trí Nhan

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tuân Dao** (chữ Hán: 荀瑶, bính âm: Xún Yáo,506 TCN-453 TCN), hay **Trí Dao** (知瑤), **Trí bá Dao** (知伯瑤), **Trí Tương tử** (知襄子), là vị tông chủ thứ sáu của họ Trí, một trong Lục
nhỏ|phải|Đảo Alofi trong [[Quần đảo Horn]] **Alofi** là một hòn đảo ở Thái Bình Dương, đảo thuộc Cộng đồng Hải ngoại Wallis và Futuna của Pháp. Đảo gần như không có người cư trú (năm
**Đào Khản** (chữ Hán: 陶侃, 259 – 334), tự **Sĩ Hành**, người Bà Dương hay Tầm Dương, là danh tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha của Đào Khản
**Tuần Châu** là một phường đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Tuần Châu hiện trở thành một khu du lịch, nghỉ dưỡng của Hạ Long. ## Lịch sử và tên gọi Trên đảo có
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**Trận chiến quần đảo Falkland** là một thắng lợi của Hải quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi đang thay lông nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi giống đực ở [[Alaska]] **Chăn nuôi tuần lộc** hay **chăn thả tuần lộc** (_Reindeer herding_) là các hoạt động chăn nuôi, chăn
**_Tenryū_** (tiếng Nhật: 天龍 - Hán-Việt: Thiên Long) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc. Tên
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**Trường Đại học Trần Quốc Tuấn** (tiếng Anh: Tran Quoc Tuan University - First Army Academy) hay **Trường Sĩ quan Lục quân 1** là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân sơ cấp
**_Kiso_** (tiếng Nhật: 木曽) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng trong lớp _Kuma_ class, và đã từng hoạt
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
**Quần đảo Solomon** (tiếng Anh: **Solomon Islands**) là một quốc đảo của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
**Chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông** là một chiến dịch không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng về chủ quyền lãnh thổ của Quân giải phóng Miền Nam (QGPMN) trong
**Tuần lộc Svalbard** (Danh pháp khoa học: _Rangifer tarandus platyrhynchus_) là một phân loài của loài tuần lộc được tìm thấy trên quần đảo Svalbard của Na Uy. ## Đặc điểm Chúng là những loài
**Quần đảo Pitcairn** (; tiếng Pitkern: **'), tên gọi chính thức: **Pitcairn, Henderson, Ducie và Oeno''', là một nhóm gồm bốn hòn đảo núi lửa ở phía Nam Thái Bình Dương tạo thành Lãnh thổ
**_Ōi_** (tiếng Nhật: 大井) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst**_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc _Scharnhorst_ và _Gneisenau_, chúng lớn hơn lớp
**_Moskva_** (), tên cũ là **_Slava_** (), là một tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường của Hải quân Liên Xô (cũ) và Hải quân Nga. Đây là chiếc tàu đầu tiên thuộc Dự
**Tuần duyên Hoa Kỳ** hay **Dương hải vệ Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Coast Guard_ hay viết tắt là **USCG**) là một quân chủng của quân đội Hoa Kỳ và là một trong 8
**_Kuma_** (tiếng Nhật: 球磨) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm năm chiếc. Tên của nó được đặt
**Lớp tàu tuần dương _Tenryū**_ (tiếng Nhật: 天龍型軽巡洋艦; Tenryū-gata keijunyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ đầu tiên mà Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng. Chúng được tiếp nối bởi lớp _Kuma_
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**Lớp tàu tuần dương _Agano**_ (tiếng Nhật: 阿賀野型軽巡洋艦, Agano-gata keijunyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
Bản đồ vùng Bắc cực của Nga nhỏ|Vị trí của bán đảo Taymyr **Bán đảo Taymyr** () là một bán đảo tại Siberi tạo thành phần xa nhất về phía bắc của châu Á đại
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Tuần lộc Bắc Cực** hay còn gọi là **tuần lộc Peary** (Danh pháp khoa học: _Rangifer tarandus pearyi_) là một phân loài của loài tuần lộc được tìm thấy trong các đảo ở vùng Bắc