✨Tiền Hoằng Tá

Tiền Hoằng Tá

Tiền Hoằng Tá () (14 tháng 8, 928 và Trấn Đông. Anh thứ năm của ông là Tiền Hoằng Tổn ban đầu được lập làm thế tử, Tiền Nguyên Quán cho xây phủ ở thành bắc. Một ngày, khi Tiền Hoằng Tá và Tiền Hoằng Tổn cùng chơi bạc ở Thanh Sử lâu, Tiền Hoằng Tổn đột nhiên nói với Tiền Hoằng Tá "chốn quân vương là doanh phủ thự của ta, nay cùng ngươi đánh cuộc." Tuy nhiên, đến lần ném thứ tư thì Tiền Hoằng Tá được lục xích, Tiền Hoằng Tổn thất sắc. Tiền Hoằng Tá bình tĩnh nói "[Khi] Ngũ ca nhập phủ, ta sẽ nhận phù ấn của tướng." Tiền Hoằng Tá vái lậy Tiền Hoằng Tổn, song Tiền Hoằng Tổn tức giận ném bàn xúc xắc xuống dưới lầu. Khi trong quân phàn nàn về việc ban thưởng không đều, giơ trượng không nhận, các tướng không thể chế phục được, đến khi Tào Trọng Đạt đích thân đến phủ dụ thì tất cả mới buông trượng mà bái. và Lý Văn Khánh bị biếm đến Mục châu, Khám Phan và Hữu thống quân sứ Hồ Tiến Tư (胡進思) càng tùy tiện làm càn. Ngày Mậu Tý (14) tháng 11 (13 tháng 12), Tiền Hoằng Tá nạp phi Ngưỡng thị, bà là con gái của Ninh Quốc tiết độ sứ -Đồng bình chương sự Ngưỡng Nhân Thuyên. (Trước đó ông kết hôn với Đỗ thị.)

Năm 944, láng giềng ở phía nam của Ngô Việt là Mân đại loạn, tướng Chu Văn Tiến giết Quốc vương Vương Diên Hy và đoạt quyền kiểm soát kinh thành Phúc châu và xưng đế. Chu Văn Tiến sai con em đến Ngô Việt làm con tin nhằm cầu viện khi phải giao chiến với em của Vương Diên Hi là Vương Diên Chính. Sau khi Chu Văn Tiến bị ám sát, Vương Diên Chính kiểm soát toàn lãnh thổ Mân, song Lý Nhân Đạt lại nổi dậy tại Phúc châu. Khi Kiến châu bị Nam Đường tiến công, Vương Diên Chính sai sứ phụng biểu xưng thần với Ngô Việt, xin làm nước phụ dung để cầu cứu. Tuy nhiên, Kiến châu sau đó thất thủ trước quân Nam Đường, nước Mân diệt vong, Lý Nhân Đạt trở thành chư hầu của Nam Đường và tiếp tục cai quản Phúc châu.

Trình Chiêu Duyệt (程昭悅) nguyên là một người giàu có, trước kia dùng của cải để kết thân với Nội đô giám sứ Đỗ Chiêu Đạt (杜昭達) và Khám Phan nên được làm cận thần cho Tiền Hoằng Tá. Trình Chiêu Duyệt là người giảo nịnh, lấy được lòng của Tiền Hoằng Tá, được sủng đãi hơn cả tướng lâu năm, Khám Phan do vậy bức xúc. Trình Chiêu Duyệt biết vậy nên đến gặp Khám Phan và lạy đầu sát đất tạ tội, Khám Phan trách móc một lúc lâu rồi lại nói rằng "Ta ban đầu quyết muốn giết ngươi, nay đã hối rồi, ta cũng bỏ qua". Trình Chiêu Duyệt nghe thấy vậy thì lo sợ, lập mưu loại trừ Khám Phan. Khám Phan là người chuyên tâm song cố chấp, quốc nhân có nhiều người ghét, Tiền Hoằng Tá cũng vậy. Trình Chiêu Duyệt muốn đẩy Khám Phan đi xa nhưng sợ bị phát hiện, bèn hợp mưu với Hồ Tiến Tư, Hồ Tiến Tư đề nghị Tiền Hoằng Tá bổ nhiệm Khám Phan làm Minh châu thứ sử và Hồ Tiến Tư làm Hồ châu thứ sử. Khám Phan thoạt đầu tức giận, song do Hồ Tiến Tư thuyết phục nên chấp thuận. Mẹ của Nội ngoại mã bộ đô thống quân sứ Tiền Nhân Tuấn (錢仁俊) là cô của Đỗ Chiêu Đạt, Trình Chiêu Duyệt nhân đó vu cáo Khám Phan và Đỗ Chiêu Đạt âm mưu tác loạn để tôn Tiền Nhân Tuấn làm tân vương. Ngày Ất Mão (22) tháng 11 năm Ất Tị (29 tháng 12 năm 945), Tiền Hoằng Tá cho giết Đỗ Chiêu Đạt. Đến ngày Kỉ Mùi (26) cùng tháng (2 tháng 1 năm 946) thì cho giết Khám Phan. Tiền Hoằng Tá cho bãi chức quan của Tiền Nhân Tuấn, giam lỏng tại Đông phủ. Nhân cơ hội này, Trình Chiêu Duyệt buộc tội người trong đảng của Khám Phan và Đỗ Chiêu Đạt, khiến hơn 100 người bị giết hoặc bị lưu đày. Quốc nhân sợ Trình Chiêu Duyệt, không dám nhìn thẳng vào người này.

Sang tháng 3 ÂL, Tiền Hoằng Tá lại phát thủy binh do Dư An (余安) chỉ huy theo đường biển đến cứu Phúc châu, song ban đầu không thể đổ bộ. Tướng Nam Đường là Phùng Diên Lỗ (馮延魯) cho rằng để quân Ngô Việt đổ bộ thì sẽ tiêu diệt được toàn bộ. Tuy nhiên, quân Ngô Việt sau khi đổ bộ thì rất phấn khích, Phùng Diên Lỗ không địch nổi, bỏ binh sĩ mà chạy. Quân Ngô Việt thừa thắng mà tiến, trong thành Phúc châu cũng xuất binh, giáp kích quân Nam Đường, giành được đại thắng. Sau khi Phúc châu được giải vây, Trương Quân và Dư An trở về Ngô Việt. Tiền Hoằng Tá khiển Đông Nam an phủ sứ Bào Tu Nhượng (鮑修讓) đem binh Ngô Việt đóng tại Phúc châu. Ông cũng cho em là Đông phủ an phủ sứ Tiền Hoằng Tông làm thừa tướng.

Tiền Hoằng Tá mất ngày Ất Mão (2) tháng 6 cùng năm (22 tháng 6), di lệnh để Tiền Hoằng Tông làm Trấn Hải-Trấn Đông tiết độ sứ, kiêm Thị trung, Tiền Hoằng Tông sau đó nắm quyền cai quản nước Ngô Việt.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiền Hoằng Tá** () (14 tháng 8, 928 và Trấn Đông. Anh thứ năm của ông là Tiền Hoằng Tổn ban đầu được lập làm thế tử, Tiền Nguyên Quán cho xây phủ ở thành
**Tiền Hoằng Tông** (錢弘倧) (928-971? Mẹ ông là vợ thứ của Triền Quán, người họ Phu, trước đó bà cũng hạ sinh cho Triền Quán hoàng tử thứ năm Tiền Hoằng Tốn. Tiền Hoằng Tông
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt
Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền Tế hội đền Vua Đinh Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn **Đền thờ Đinh Tiên Hoàng** là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ
**Điện Phụng Tiên** (chữ Hán: 奉先殿), có nghĩa _"Điện thờ phụng tổ tiên"_, là một ngôi điện nằm ở gần cửa Chương Đức, phía trước Cung Diên Thọ, cửa tây của Hoàng Thành, thành phố
Phố Đinh Tiên Hoàng bên [[hồ Hoàn Kiếm]] **Phố Đinh Tiên Hoàng** (Hà Nội) là một tuyến phố du lịch nằm ở phần bờ đông và bắc của hồ Hoàn Kiếm, quận Hoàn Kiếm. Phố
**Hoàng Tá Thốn** (1254-1339) là một đại thần dưới triều đại nhà Trần, có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 3 của Đại Việt. ## Xuất thân Sát Hải
Khi nhắc đến Hà Tiên, người ta thường nghĩ ngay đến vẻ đẹp hoang sơ của biển trời, những danh thắng nổi tiếng như Thạch Động, Mũi Nai, Núi Đèn, và cả nét yên bình
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Hoàng Phê** (ngày 5 tháng 7 năm Kỷ Mùi, 1919 - 29 tháng 1 năm Ất Dậu, 2005) là Giáo sư, một nhà từ điển học, chuyên gia về chính tả tiếng Việt. ## Tiểu
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Tiền Nguyên Quán** (, 887-941), nguyên danh **Tiền Truyền Quán** (錢傳瓘), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Văn Mục Vương**, tên tự **Minh Bảo** (明寶), là quốc vương thứ nhì của nước Ngô Việt
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Calixtô I** (Latinh: _Callistus I_), năm sinh và nơi sinh của ông không được xác định. Tuy nhiên một số nguồn cho rằng ông sinh tại Roma và mất vào năm 222. Ông là vị
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
[[Đình Bình Thủy, Cần Thơ.]] **Thành hoàng** hay **Thần hoàng**, **Thần Thành hoàng**, là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Thần Thành hoàng có thể mang nhiều cái tên khác
Mộ Hoàng Kế Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình **Hoàng Kế Viêm** (1820 - 1909) là phò mã và là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926. Tên húy của Thiên
**Thác Bạt Hoảng** (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ
**Nguyễn Thị Sen** (? - ?) là tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, vợ của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được hậu thế tôn vinh là bà tổ nghề may.
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Tiền Thục** (29 tháng 9 năm 929 - 7 tháng 10 năm 988, biểu tự là **Văn Đức**), được biết đến với tên **Tiền Hoằng Thục** trước năm 960, là vị vua cuối cùng của
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Hoằng Hóa** là một huyện đồng bằng ven biển cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hoằng Hóa nằm ở phía đông của tỉnh Thanh Hóa, nằm cách thành phố Thanh
**Triều Tiên thuộc Nhật** (, Dai Nippon Teikoku (Chōsen)) là giai đoạn bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản cai trị, được bắt đầu kể từ khi Nhật Bản ép vua
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
Khi nhắc đến Hà Tiên, người ta thường nghĩ ngay đến vẻ đẹp hoang sơ của biển trời, những danh thắng nổi tiếng như Thạch Động, Mũi Nai, Núi Đèn, và cả nét yên bình
Khi nhắc đến Hà Tiên, người ta thường nghĩ ngay đến vẻ đẹp hoang sơ của biển trời, những danh thắng nổi tiếng như Thạch Động, Mũi Nai, Núi Đèn, và cả nét yên bình