✨Tiền Nguyên Quán

Tiền Nguyên Quán

Tiền Nguyên Quán (, 887-941), nguyên danh Tiền Truyền Quán (錢傳瓘), gọi theo thụy hiệu là Ngô Việt Văn Mục Vương, tên tự Minh Bảo (明寶), là quốc vương thứ nhì của nước Ngô Việt thời Ngũ Đại Thập Quốc. Trong thời gian ông trị vì, vương quốc tập trung tại khu vực Chiết Giang ngày nay. Ông kế vị cha Tiền Lưu vào năm 932, tiếp tục cai trị cho đến năm 941. Ba quốc vương sau đó của Ngô Việt đều là vương tử của ông.

Thân thế

Tiền Truyền Quán sinh năm 887, trong thời gian trị vì của Đường Hy Tông, thứ sử, và là chư hầu của Uy Thắng tiết độ sứ Đổng Xương. Ông là thất tử của Tiền Lưu, mẹ của ông là Trần thị- thiếp của Tiền Lưu. và Trấn Hải, và phải đối mặt với một cuộc binh biến của Từ Oản (徐綰) và Hứa Tái Tư (許再思), ngoài ra Ninh Quốc tiết độ sứ Điền Quân còn đem quân đến tiếp viện cho Từ và Hứa. Khi Tiền Lưu tập hợp các con và hỏi: "Ai có thể làm rể của Điền thị" (nhằm cầu hòa), không ai đáp lại. Tiền Lưu định khiển ấu tử Tiền Truyền Cầu (錢傳球), song Truyền Cầu từ chối, Tiền Lưu rất phẫn nộ và định giết Truyền Cầu, Tiền Truyền Quán quyết định thỉnh xin đi. Chính thất của Tiền Lưu là Ngô phu nhân yêu quý Truyền Quán nên khóc không thành tiếng, và không muốn cử ông đi, song Tiền Truyền Quán đáp: "Trừ nạn cho quốc gia, sao có thể tiếc thân?" Tiền Truyền Quán dời đi cùng với Điền Quân, và dường như kết hôn với một nữ nhi của Điền Quân.

Năm 904, Điền Quân bất mãn nên quyết định nổi dậy chống lại Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật (trước đó Điền Quân là chư hầu của Dương Hành Mật). Sau khi liên tiếp thất bại và rơi vào tình thế tuyệt vọng, Điền Quân định giết Tiền Truyền Quán, song Tiền Truyền Quán thoát chết nhờ được mẹ của Điền Quân là Ân thị và Tuyên châu đô ngu hậu Quách Sư Tòng (郭師從) luôn bảo hộ. Sau khi Điền Quân bị đánh bại và bị giết, Tiền Truyền Quán trở về Hàng châu cùng với Quách Sư Tòng, Quách Sư Tòng trở thành thuộc hạ dưới quyền Tiền Lưu.

Dưới quyền phụ thân

Thời Hậu Lương

Năm 907, Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung soán vị triều Đường, mở đầu triều Hậu Lương, bản thân trở thành Hậu Lương Thái Tổ. Tiền Lưu công nhận Hậu Lương, được Hậu Lương Thái Tổ phong làm Ngô Việt vương, quốc gia của Tiền Lưu do đó được gọi là Ngô Việt.

Một thời gian ngắn trước khi được phong tước Ngô Việt vương, Tiền Lưu khiển Tiền Truyền Liệu và Tiền Truyền Quán đi đánh Ôn châu và Xử châu, hai châu này thuộc về Trấn Đông quân song được cai quản độc lập dưới quyền huynh đệ Lô Cát (盧佶) và Lô Ước (盧約). Tiên đoán Tiền Truyền Liệu và Tiền Truyền Quán sẽ dùng thủy quân, Lô Cát đem thủy quân đến cự chiến tại Thanh Áo. Tiền Truyền Quán nhận định thủy quân của Lô Cát đều là tinh binh và không nên giao chiến, ông cùng binh lính tiến đến An Cố, đổ bộ và tiến thẳng đến Ôn châu. Họ nhanh chóng chiếm được Ôn châu và bắt giữ, giết chết Lô Cát. Tiền Lưu tiếp tục lệnh cho Truyền Liệu và Truyền Quán di binh thảo Xử châu, Lô Ước đầu hàng Ngô Việt. hướng đến quê nhà Y Cẩm quân của Tiền Lưu. Tiền Lưu phong Hồ châu thứ sứ Tiền Truyền Quán làm Bắc diện ứng viện đô chỉ huy sứ và đem quân đi ngăn chặn, trong khi khiển Tiền Truyền Liệu đem thủy quân tiến công Đông Châu của Ngô để phân tán quân Ngô. Tiền Truyền Quán nhận thấy đường qua Thiên Thu lĩnh hiểm trở và hẹp, sai người đốn cây cối để chặn đường tiến quân của quân Ngô và sau đó tiến công, kết quả quân Ngô chiến bại, Tiền Truyền Quán bắt được Lý Đào và 3.000 quân Ngô. Cuối năm đó, Ngô khiển Tuyên châu phó chỉ huy sứ Hoa Kiền (花虔) đem binh đến hội với Quảng Đức trấn át sứ Qua Tín (渦信), mục đích là để tiếp tục lên kế hoạch tiến công Y Cẩm quân. Tiền Truyền Quán chủ động tiến công Quảng Đức, bắt giữ Hoa Kiền và Qua Tín. Tuy nhiên, khi Tiền Truyền Quán, Tiền Truyền Liệu và một huynh đệ khác là Tiền Truyền Anh (錢傳瑛) cùng tiến công Thường châu của Ngô, họ chiến bại trước phụ chính Từ Ôn và tướng Trần Hựu (陳祐) của Ngô, nhiều binh sĩ Ngô Việt tử chiến.

Cuối năm 913, Hoàng đế Hậu Lương đương thời là Chu Trấn phong cho Tiền Truyền Quán là kiểm hiệu thái bảo, Đại Bành huyện khai quốc nam, thực ấp 300 hộ. Sang năm 914, ông được bổ nhiệm đặc tiến, Quảng Lộc đại phu, tiến tước Đại Bành huyện khai quốc hầu, thực ấp 1.000 hộ.

Năm 919, theo chỉ của Chu Trinh, Tiền Lưu phong tiết độ phó đại sứ Tiền Truyền Quán làm Chư quân đô chỉ huy sứ, suất 500 chiến hạm, đánh Ngô từ Đông Châu. Ngô khiển Thư châu thứ sử Bành Ngạn Chương (彭彥章) cùng phó tướng Trần Phần (陳汾) cự chiến. Để chuẩn bị cho trận chiến, Tiền Truyền Quán cho đưa tro, cát và đậu lên các thuyền. Khi hai bên chạm mặt ở Lang Sơn Giang, Tiền Lưu cho các chiến hạm đến vị trí thuận chiều gió và sau đó rải tro vào các chiến hạm của quân Ngô, khiến binh lính Ngô không thể trông thấy các chiến hạm của Ngô Việt. Sau đó, Tiền Truyền Quán cho trải cát ra sàn các chiến hạm của mình, trong khi ném đậu vào chiến hạm của Ngô, khiến sàn các chiến hạm của Ngô đầy hạt đậu và binh lính Ngô sau đó trượt ngã và không thể hành động một cách nhanh chóng. Kế tiếp, Tiền Truyền Quán cho ném đuốc vào các chiến hạm của Ngô khiến chúng bốc cháy, quân Ngô thảm bại. Trần Phần không đến cứu viện cho Bành Ngạn Chương, vị chỉ huy này quyết định tự sát. Sau đó, Tiền Lưu lệnh cho Tiền Truyền Quán tiến công Thường châu, Từ Ôn đích thân đem quân Ngô đến cự chiến. Khi đó, thời tiết khô hanh, quân Ngô có thể dùng hỏa công chống lại quân Ngô Việt, khiến binh lính Ngô Việt hoảng sợ. Các tướng Ngô Việt là Hà Phùng (何逢) và Ngô Kiến (吳建) bị quân Ngô giết, Tiền Truyền Quán buộc phải chạy trốn. Từ Ôn nhân cơ hội này để thiết lập hòa bình giữa hai nước bằng việc trao trả các tù binh bị quân Ngô bắt, và theo ghi chép thì trong 20 năm sau đó, giữa hai nước không xảy ra vụ đụng độ lớn nào.

Năm 920, Chu Trấn bổ nhiệm Tiền Truyền Quán là Thanh Hải tiết độ sứ, và chức Đồng bình chương sự, tuy nhiên Thanh Hải quân lúc này thực tế nằm dưới quyền cai quản của nước Nam Hán. Năm 923, khi Chu Trấn phong Tiền Lưu làm Ngô Việt quốc vương, Tiền Lưu nay có được chủ quyền và bổ nhiệm Tiền Truyền Quán là lưu hậu của Trấn Hải và Trấn Đông, tổng quản phủ sự.

Đương thời, Tiền Truyền Quán đã hơn 30 tuổi mã chưa có đích tử với chính thất Mã thị, song khi đó quan lại của Ngô Việt không được phép có tiểu thiếp theo lệnh của Tiền Lưu, do vậy Mã thị đến gặp Tiền Lưu để xin cho Tiền Truyền Quán được miễn. Tiền Lưu vui mừng trả lời: Tế tự nhà ta, con là thực chủ." Do đó, Tiền Lưu cho phép Tiền Truyền Quán nạp thêm thiếp, và họ sinh cho ông nhiều nhi tử, Mã thị đối đãi với chúng như những nhi tử thân sinh. Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Tiền Truyền Quán làm Thanh Hải tiết độ sứ, lưu hậu của Trấn Hải và Trấn Đông, Trung thư lệnh, kiểm hiệu thái sư, và Khai phủ nghi đồng tam ti.

Năm 928, Tiền Lưu muốn chính thức lập Tiền Truyền Quán làm người kế nhiệm, song do Tiền Truyền Quán không phải là trưởng tử nên ông đã quyết định tập hợp các vương tử và tuyên bố sẽ lập ai có nhiều công lao nhất làm người kế nhiệm. Đáp lại, các huynh của Truyền Quán là Truyền Trù (傳懿), Truyền Liệu, và đệ là Truyền Cảnh (傳璟) đều ủng hộ Truyền Quán. Sau đó, Tiền Lưu thượng biểu cho Hậu Đường Minh Tông xin trao chức tiết độ sứ của Trấn Hải và Trấn Đông cho Tiền Truyền Quán, Hậu Đường Minh Tông chấp thuận lời thỉnh cầu.

Năm 929, mối quan hệ giữa Ngô Việt và Hậu Đường bị xấu đi. Hậu Đường Minh Tông ban cho Tiền Lưu chức Thái sư để trí sĩ và tước tất cả các chức tước khác của Tiền Lưu, và còn ra lệnh cho các địa phương của Ngô Việt bắt hết sứ giả của Ngô Việt. Tiền Lưu lệnh cho Tiền Truyền Quán cùng thượng biểu kêu oan song không được xem xét.

Tiền Nguyên Quán hậu đãi các huynh đệ, khi Trung Vũ- Kiến Vũ tiết độ sứ Tiền Nguyên Liệu đến Hàng châu yết kiến, Tiền Nguyên Quán dùng lễ người trong nhà để tiếp đãi, dâng rượu mừng thọ, nói, "Ngôi vị này là của huynh. Tiểu tử ngồi đây được là do huynh ban cho." Tiền Nguyên Liệu đáp: "tiên Vương chọn người hiền để kế vị. Nay quân thần đã định, Nguyên Liệu chỉ biết trung thuận thôi." Hai người xúc động khóc không thành tiếng. Tuy nhiên, khi cần thiết, ông vẫn sẵn sàng có hành động chống lại các huynh đệ, như vào năm 933, đệ của ông là Thuận Hóa tiết độ sứ Tiền Nguyên Hướng (錢元珦) kiêu túng bất pháp, mỗi khi ông ta thỉnh sự lên vương phủ thì đều bị bác bỏ, do vậy ông ta thượng thư thể hiện sự oán hận và vô lễ. Tiền Truyền Quán khiển nha tướng Ngưỡng Nhân Thuyên (仰仁詮) đến thủ phủ Minh châu của Thuận Hóa để triệu Tiền Nguyên Hướng, biết trước rằng người đệ này sợ Ngưỡng. Ngưỡng Nhân Thuyên bắt được Tiền Nguyên Hướng và đưa ông ta về Hàng châu, Tiền Nguyên Quán cho Tiền Nguyên Hướng sống trong biệt đệ. và bà được hoàng đế Hậu Đường đương thời là Lý Tòng Kha truy tặng Tấn quốc thái phu nhân. Do tình cảm dành cho mẹ, ông hậu đãi gia tộc của mẹ, song không ban chức quan cho họ. tiết độ sứ Thạch Kính Đường xưng là hoàng đế của Hậu Tấn, cùng quân Khiết Đan tiêu diệt Hậu Đường. Tiền Truyền Quán có vẻ nhanh chóng xưng thần với Hậu Tấn, vì cuối năm đó Hậu Tấn Cao Tổ bổ nhiệm ông là Thiên hạ binh mã phó nguyên soái. thứ sử Vương Diên Chính, cuối cùng nổ ra nội chiến. Vương Hy phái 4 vạn quân bao vây Kiến châu, Vương Diên Chính cầu viện Ngô Việt. Bất chấp lới can gián của thừa tướng Lâm Đỉnh (林鼎), Tiền Nguyên Quán vẫn khiển Ninh Quốc tiết độ sứ-Đồng bình chương sự Ngưỡng Nhân Thuyên và Nội đô giám sứ Tiết Vạn Trung đem 4 vạn lính đến cứu viện cho Vương Diên Chính. Tuy nhiên, khi quân Ngô Việt đến nơi thì Vương Diên Chính đã đẩy lui cuộc tiến công của Vương Hi, Vương Diên Chính tặng quà cho quân Ngô Việt và thỉnh cầu quân Ngô Việt triệt thoái. Tuy nhiên, Ngưỡng Nhân Thuyên và Tiết Vạn Trung từ chối và dựng trại ở gần châu thành. Vương Diên Chính lo sợ và quay sang cầu viện Vương Hy, Vương Hy khiển Tuyền châu thứ sử Vương Kế Nghiệp (王繼業) suất 2 vạn quân đến cứu viện. Sau đó, Vương Diên Chính tiến công quân Ngô Việt, Ngưỡng Nhân Thuyên và Tiết Vạn Trung thua trận và chạy trốn. Cũng trong năm 940, Hậu Tấn Cao Tổ bổ nhiệm Tiền Nguyên Quán là Thiên hạ binh mã đô nguyên soái, Thượng thư lệnh.

Năm 941, vương phủ thự của Ngô Việt xảy ra hỏa hoạn, cung thất và phủ khố bị cháy gần hết. Tiền Nguyên Quán kinh sợ, phát cuồng tật. Các quan lại của Nam Đường (thay thế Ngô) đều khuyến khích Nam Đường Liệt Tổ công chiếm Ngô Việt. Tuy nhiên, Hoàng đế Nam Đường không muốn tận dụng thời cơ này, thay vào đó ông ta khiển sứ giả sang chúc Tiền Truyền Quán bình phục, ngoài ra còn tặng quà.

Ngoài việc phát cuồng tật, thể chất của Tiền Truyền Quán cũng suy sụp, ông giao phó Tiền Hoằng Tá (Tiền Hoằng Tổn qua đờì năm 940) cho Nội đô giám Chương Đức An (章德安), sau đó qua đời. Tiền Hoằng Tá tức vị, được Hậu Tấn Cao Tổ sắc phong là Ngô Việt quốc vương.

Gia quyến

; Thê thiếp

  • Điền thị, nhi nữ của Điền Quân
  • Cung Mục phu nhân Mã thị
  • Nhân Huệ phu nhân Hứa Tân Nguyệt, sinh Hoằng Tá
  • Cung Ý phu nhân Ngô Hán Nguyệt, sinh Hoằng Thục
  • Phu thị, sinh Hoằng Tổn và Hoằng Tông
  • Trần thị, sinh Hoằng Trạm và Hoằng Ác ; Tử
  • Tiền Hoằng Tuân (錢弘僎), Quỳnh Sơn hầu
  • Tiền Hoằng Huyên (錢弘儇) (913-966), nguyên danh Tiền Hoằng Xưng (錢弘偁), Chương Vũ-Tiết Huệ tiết độ sứ
  • Tiền Hoằng Hựu (錢弘侑), Tây An hầu
  • Tiền Hoằng ? (錢弘侒̵)
  • Tiền Hoằng Tổn (錢弘僔) (925-940), Hiếu Hiến thế tử, phong năm 937
  • Tiền Hoằng Tá (錢弘佐), Ngô Việt Trung Hiến Vương
  • Tiền Hoằng Tông (錢弘倧), Ngô Việt Trung Tốn Vương
  • Tiền Hoằng Trạm (錢弘偡), Ngô Hưng Cung Nghĩa Vương
  • Tiền Hoằng Thục (錢弘俶), sau cải thành Tiền Thục, Ngô Việt Trung Ý Vương
  • Tiền Hoằng Ức (錢弘億), sau cải thành Tiền Ức (錢億), Phụng Quốc-Khang Hiến tiết độ sứ
  • Tiền Hoằng Nghi (錢弘儀) (932-979), sau cải thành Tiền Nghi (錢儀), Khai quốc Bành Thành hầu
  • Tiền Hoằng Ác (錢弘偓) (934-958), Cù châu thứ sử
  • Tiền Hoằng Ngưỡng (錢弘仰) (935-958), Thai châu thứ sử
  • Tiền Hoằng Tín (錢弘信) (937-1003), sau cải thành Tiền Tín (錢信), rồi Tiền Nghiễm (錢儼), Chiêu Hóa-Tĩnh Nguyên tiết độ sứ
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiền Nguyên Quán** (, 887-941), nguyên danh **Tiền Truyền Quán** (錢傳瓘), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Văn Mục Vương**, tên tự **Minh Bảo** (明寶), là quốc vương thứ nhì của nước Ngô Việt
**Nguyễn Quan Quang** (chữ Hán: 阮觀光, 1222-?), có tài liệu ghi là **Nguyễn Quán Quang** hay **Trần Quán Quang**, là một danh thần thời nhà Trần. Ông được biết nhiều với giai thoại đỗ Tam
**Nguyễn Quán Nho** (1638 – 1708) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Xuất thân **Nguyễn Quán Nho** là người làng Đông Triều, xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên, thuộc
**Nguyên Quân** (chữ Hán: 元均, 478 – 529), hay **Thác Bạt Quân** (拓跋均), tự **Thế Bình**, là hoàng thân, quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông tổ 5
nhỏ|Hiệu kỳ của Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc là lá cờ màu đỏ trơn. **Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc** ( - **Trung Quốc Nhân dân Chí nguyện quân**), tiếng Anh gọi
**Bình Nguyên quân** (chữ Hán: 平原君, ? - 251 TCN), tên thật là **Triệu Thắng** (趙勝), là Tướng quốc nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, ông phục vụ dưới thời Triệu
**Nguyễn Quân** (sinh ngày 12 tháng 6 năm 1955) là một Tiến sĩ và chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:The_Taoist_deity_Doumu._Dehua_porcelain._Qing,_1700-1800._Asian_Art_Museum.jpg|nhỏ|Tượng sứ Đẩu Mẫu thời [[nhà Thanh, có niên đại khoảng năm 1700–1800.]] **Đẩu Mẫu nguyên quân** (), cũng thường được biết đến dưới tên **Đấu Mỗ nguyên quân** (, trong đó "Mỗ" cũng có
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Nguyễn Chí Vịnh** (15 tháng 5 năm 1959 – 14 tháng 9 năm 2023), bí danh **Năm Vịnh**, là sĩ quan cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên
[[Tập tin:Min Kingdom, 945 v2 (zh-hant).svg|phải|Bản đồ các châu nước Mân, 945 ]] thumb|Thời [[Hậu Chu|nhà Hậu Chu (951–960) ]] **Thanh Nguyên quân** (), 945—964), sau đổi là **Bình Hải quân** (平海军, 964—978) là một
**Nguyễn Minh Quang** (sinh ngày 23/2/1960) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá 13 thuộc đoàn đại biểu thành phố Hà Nội. Khi trúng cử thì ông là bí thư Đảng ủy Đảng cộng
**Vệ Nguyên quân** (chữ Hán: 衞元君; trị vì: 251 TCN-230 TCN), là vị vua thứ 45 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vệ Nguyên quân
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Viện phát triển khoa học và công nghệ quốc phòng** (viết tắt **AMST** theo tên tiếng Anh của đơn vị là _Academy of Military Science and Technology_) là một viện nghiên cứu khoa học đa
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Loạn 12 sứ quân** (chữ Hán: 十二使君之亂, _Thập nhị sứ quân chi loạn_) là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô Quyền
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Hà Tiên** (chữ Hán: _河僊_) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832. ## Lịch sử ### Vùng đất Hà Tiên xưa Xưa kia, đây là vùng
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
thumb|[[Bảng tuần hoàn]] **Nguyên tố hóa học**, thường được gọi đơn giản là **nguyên tố**, là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa