✨Thạch Kính Đường

Thạch Kính Đường

Hậu Tấn Cao Tổ (30 tháng 3, 892), tên thật là Thạch Kính Đường (石敬瑭), là hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Tấn, vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời Ngũ đại Thập quốc, trị vì từ năm 936 đến khi ông mất.

Cha của ông là Thạch Thiệu Ung, làm quan tới Minh Châu thứ sử. Thạch Kính Đường từ nhỏ đã được Lý Tự Nguyên (sau này là Hậu Đường Minh Tông) đánh giá cao, cho chỉ huy thân binh và gả con gái cho. Năm Đồng Quang thứ 4 (926) thời Hậu Đường Trang Tông, tại Ngụy Châu xảy ra binh biến, Thạch Kính Đường thúc giục Lý Tự Nguyên đem quân vào Biện Châu, chuyển hướng tấn công vào Lạc Dương, giết Hậu Đường Trang Tông rồi tự mình lên ngôi Hoàng đế, gọi là Hậu Đường Minh Tông. Sau khi Tự Nguyên lên ngôi Thạch Kính Đường đã giữ chức vụ tiết độ sứ tại các trấn Bảo Nghĩa, Tuyên Vũ, Hà Đông.

Năm 934, Hậu Đường Mẫn Đế Lý Tòng Hậu chuyển Thạch Kính Đường tới làm tiết độ sứ ở Thành Đức. Mẫn Đế thảo phạt Lộ vương Lý Tòng Kha bị thất bại, chạy tới Vệ Châu, cầu viện Thạch Kính Đường, nhưng bộ hạ của Thạch Kính Đường lại giết sạch tùy tòng của Mẫn Đế và giam cầm Mẫn Đế tại Vệ Châu. Cuối cùng Mẫn Đế bị Lý Tòng Kha cử người tới giết chết.

Năm 936, Thạch Kính Đường nổi dậy chống Hậu Đường, ông cầu viện sự giúp đỡ của Khiết Đan, cắt 16 châu cho Khiết Đan sau khi giành được quyền lực, một hành động có tác động đến tình thế chính trị Trung Quốc trong nhiều năm sau đó.

Thân thế

Cựu Ngũ Đại sử viết rằng Thạch Kính Đường là hậu duệ của Đại phu Thạch Thước (石碏) của nước Vệ thời Xuân Thu, và Thừa tướng Thạch Phấn (石奮) của triều Hán. Khi triều Hán suy, Quan-Phụ loạn, tử tôn của Thạch Phấn dời về phía tây, định cư tại Cam châu. Cũng theo Cựu Ngũ Đại sử, vào giữa niên hiệu Nguyên Hòa (806-820) thời Đường, tổ bốn đời của Thạch Kính Đường là Thạch Cảnh (石璟) theo thủ lĩnh người Sa Đà là Chu Da Chấp Nghị từ Lĩnh Vũ đến quy phụ triều Đường, được giữ chức Âm Sơn phủ bì hiệu dưới quyền Chu Sa Chấp Nghi, do có biên công nên chức quan đến Sóc châu thứ sử, tổ mẫu của ông là Tần thị. Tổ ba đời của Thạch Kính Đường là Thạch Sâm (石郴) mất sớm, tổ mẫu của ông là An thị. Tổ phụ của Thạch Kính Đường là Thạch Dực (石翌), làm đến Chấn Vũ phòng ngự sứ, tổ mẫu của ông là Mễ thị. Phụ thân của Thạch Kính Đường là Thạch Thiệu Ung (石紹雍), tên Sa Đà là Nghiệt Liệt Kê (臬捩雞), giỏi cưỡi ngựa bắn cung, có mưu lược sâu xa, lập được chiến công khi theo Lý Khắc Dụng và Lý Tồn Úc, từng giữ chức thứ sử của Bình châu và Minh châu.

Thạch Kính Đường là đệ nhị tử của Nghiệt Liệt Kê, sinh ngày 28 tháng 2 năm Cảnh Phúc thứ 1 (30 tháng 3 năm 892), tức năm Nhâm Tý, tại lý Phần Dương thuộc Thái Nguyên, mẫu thân của ông là Hà thị. Lý Tồn Úc bổ nhiệm dưỡng tử của phụ thân là Lý Tự Nguyên làm Đại châu thứ sử. Trong thời gian Lý Tự Nguyên giữ chức thứ sử tại Đại châu, người này xem trọng tài năng của Thạch Kính Đường và gả con gái làm thê của Thạch Kính Đường. Lý Tồn Úc biết Thạch Kính Đường giỏi bắn cung nên thăng làm hầu cận, Lý Tự Nguyên thỉnh cho Thạch Kính Đường theo đại quân đi chinh phạt và được chấp thuận. Sau này, khi Lý Tự Nguyên theo Lý Tồn Úc chinh hành, cho Thạch Kính Đường lĩnh thân kị, hiệu là "tam thảo quân", làm tâm phúc cho mình., quân Tấn bất lợi, Thạch Kính Đường hiến kế sách cho Lý Tự Nguyên nhằm phản công Hậu Lương. Tháng 10 năm Thiên Hựu thứ 18 (921), Thạch Kính Đường theo Lý Tự Nguyên giao chiến với quân Hậu Lương ở bến Đức Thắng, đánh bại tướng Đái Tư Viễn của Hậu Lương, giết hơn hai vạn lính. Năm Thiên Hựu thứ 19 (922), trong cuộc chiến tại Hồ Lô sáo, theo mô tả quân Hậu Lương thấy Thạch Kính Đường rút gươm mở đường, hộ tống Lý Tự Nguyên thoái lui thì không dám đánh. Tháng 10 năm Thiên Hựu thứ 20 (923), Thạch Kính Đường đem binh yểm trợ Lý Tự Nguyên, giúp chủ tướng giải nguy nan từ quân Hậu Lương tại Dương Thôn trại. Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha đều lập được công lớn trong chiến dịch, song Trang Tông Lý Tồn Úc không ban phú quý cho Thạch Kính Đường vì theo ghi chép thì ông không thích kể công [nên công lao không nổi tiếng], duy có Lý Tự Nguyên là biết., song binh sĩ của Lý Tự Nguyên lại tiến hành binh biến và buộc Lý Tự Nguyên phải tham dự nổi dậy với binh sĩ Nghiệp Đô. Khi Lý Tự Nguyên thoát được khỏi Nghiệp Đô, Thạch Kính Đường thuyết phục Lý Tự Nguyên rằng muốn sự thành cần phải quả quyết, rằng Lý Tự Nguyên đã cùng quân phản loạn nhập thành thì sau này không thể được yên. Do khuyến nghị của Thạch Kính Đường và những người khác, Lý Tự Nguyên cuối cùng quyết định tập hợp binh sĩ và tiến về phía nam, ban đầu tiến về bồi đô Đại Lương và sau đó là đế đô Lạc Dương. Trong chiến dịch này, Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha tiếp tục đóng vai trò quan trọng. Ngày Đinh Hợi tháng 4 (15 tháng 5), Hậu Đường Trang Tông bị sát hại trong một cuộc binh biến tại Lạc Dương, Lý Tự Nguyên sau đó tiến vào thành và trở thành giám quốc.

Thời Minh Tông

Đương thời, hoàng tử của Trang Tông là Ngụy vương Lý Kế Ngập đang đem quân chinh Thục trở về, hướng về Lạc Dương. Lý Tự Nguyên lo sợ sẽ xảy ra rỗi loạn, bèn bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Thiểm châu lưu hậu vào ngày Mậu Tuất (12) tháng 4 (26 tháng 5), hôm sau thì bổ nhiệm Lý Tòng Kha làm Hà Trung, dẫn quân phòng thủ. Tuy nhiên, binh sĩ của Lý Kế Ngập bỏ trốn, và người này quyết định tự sát. Thuộc cấp của Lý Kế Ngập và Nhâm Hoàn đem số quân còn lại đi về phía đông, Lý Tự Nguyên mệnh Thạch Kính Đường úy phủ, đám quân này đều quy phục. Lý Tự Nguyên tức hoàng đế vị vào ngày Bính Ngọ cùng tháng (3 tháng 6), tức Hậu Đường Minh Tông. tiết độ sứ. Tháng 2 năm Đinh Hợi (927), Thạch Kính Đường được thăng làm Kiểm hiệu thái phó, kiêm Lục quân chư vệ phó sứ, tiến phong Khai quốc bá, tăng thực ấp lên 400 hộ. Cùng tháng, Thạch Kính Đường nhập triều tiết độ sứ Chu Thủ Ân nổi dậy, Minh Tông cho Phạm Diên Quang đem quân đi đánh thủ phủ của Tuyên Vũ là thành Đại Lương, rồi mệnh Ngự doanh sứ Thạch Kính Đường đem thân quân tiếp ứng, sau đó Minh Tông cũng đến sát thành Đại Lương. Do nhận thấy tình hình vô vọng nên Chu Thủ Ân tự sát. Ngày Quý Mão cùng tháng (22 tháng 11), Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Tuyên Vũ tiết độ sứ, kiêm Thị vệ thân quân mã bộ đô chỉ huy sứ. Ngày Mậu Dần (3) tháng 4 năm Mậu Tý (25 tháng 4 năm 928), Lý Tự Nguyên bổ nhiệm Thạch Kính Đường là Nghiệp Đô lưu thủ, Thiên Hùng tiết độ sứ, thăng làm Đồng bình chương sự, Ngày Đinh Mùi (3) tháng 5 (24 tháng 5), Thạch Kính Đường được thăng làm Phò mã đô úy. tiết độ sứ Mạnh Tri Tường và Đông Xuyên tiết độ sứ Đổng Chương cùng nổi dậy do lo sợ Xu mật sứ An Trọng Hối. Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Đông xuyên hành doanh đô chiêu thảo sứ, kiêm tri Đông Xuyên hành phủ sự. Ngày Nhâm Thìn (3) tháng 12 (25 tháng 12), Thạch Kính Đường tiến đến Kiếm Môn quan, song sau khi chiếm được cứ điểm này thì không thể dễ dàng tiến quân hơn nữa trước quân Đông Xuyên và Tây Nguyên. Sau đó, Minh Tông khiển An Trọng Hối đến đốc chiến, Thạch Kính Đường từ đầu vốn không muốn Tây chinh, nhân cơ hội này bèn dâng biểu tấu luận cho Minh Tông, nói rằng không thể chinh phạt được Thục, Minh Tông phần nào bị thuyết phục. Sau đó, Minh Tông buộc An Trọng Hối đi làm tiết độ sứ rồi sát hại, triệu hồi quân của Thạch Kính Đường (song Thạch Kính Đường bắt đầu thoái quân từ trước đó). Đến ngày Kỉ Dậu tháng 4 năm Tân Mão (11 tháng 5 năm 931), Thạch Kính Đường lại được kiêm Lục quân chư vệ phó sứ (dưới quyền Tần vương Lý Tòng Vinh). Sang tháng 6, ông được bổ nhiệm làm Hà Dương tiết độ sứ. tiết độ sứ, kiêm Thị trung, kiêm Đại Đồng, Chấn Vũ, Chương Quốc, Uy Tắc đẳng quân Phiên-Hán mã bộ tổng quản. Thạch Kính Đường đến thành Tấn Dương, cho bộ tướng Lưu Tri Viễn, Chu Côi (周瓌) làm đô áp nha, đặt làm tâm phúc, quân sự ủy thác cho Lưu Tri Viễn, còn tài chính ủy thác cho Chu Côi.

Cuối năm 933, Lý Tự Nguyên lâm trọng bệnh, Lý Tòng Vinh dùng vũ lực đoạt lấy quyền kiểm soát triều đình, song thất bại dưới tay của các Xu mật sứ Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân, và bị giết. Sau khi Lý Tự Nguyên mất, Lý Tòng Hậu đến Lạc Dương và tức hoàng đế vị vào ngày Quý Mão (1) tháng 12 (20 tháng 12) tiết độ sứ Phạm Diên Quang làm Thiên Hùng tiết độ sứ thay thế Mạnh Hán Quỳnh, chuyển Phượng Tướng tiết độ sứ Lý Tòng Kha làm Hà Đông tiết độ sứ, chuyển Thạch Kính Đường làm Thành Đức tiết độ sứ. Họ làm vậy mà không cần Lý Tòng Hậu giáng chế thư, mà chỉ cử sứ thần đem lệnh từ Xu mật viện đến trấn. thì gặp Thạch Kính Đường. Thạch Kính Đường tham vấn Vệ châu thứ sử Vương Hoằng Chí (王弘贄), người này cho rằng sự nghiệp của Lý Tòng Hậu không còn hy vọng. Khi binh sĩ của Lý Tòng Hậu là Cung tiễn khố sứ Sa Thủ Vinh và Bôn Hồng Tiến nghe được, họ trách mắng Thạch Kính Đường xảo trá, Sa Thủ Vinh cố gắng ám sát Thạch Kính Đường song thất bại. Nha nội chỉ huy sứ Lưu Tri Viễn của Thạch Kính Đường dẫn binh tận sát hầu cận và binh sĩ của Lý Tòng Hậu, chỉ tha cho Lý Tòng Hậu, Thạch Kính Đường và tùy tùng tiếp tục đến Lạc Dương (để bày tỏ trung thành với Lý Tòng Kha). Ngày Quý Dậu (4) tháng 4 (19 tháng 5), Tào thái hậu (nhạc mẫu của Thạch Kính Đường) hạ lệnh phế Lý Tòng Hậu và giáng làm Ngạc vương, sau đó lệnh Lý Tòng Kha tức hoàng đế vị, Lý Tòng Kha tuân theo. Lý Tòng Kha sau đó sai người đi sát hại Lý Tòng Hậu.

Thời Lý Tòng Kha

Lý Tòng Kha và Thạch Kính Đường đều là người dũng lực thiện đấu, là thân tín của Minh Tông, song trong lòng ganh đua nhau, vốn không ưa lẫn nhau. Sau khi Lý Tòng Kha tức vị, Thạch Kính Đường bất đắc dĩ nhập triều, sau tang lễ của Minh Tông vẫn không dám xin về Hà Đông. Thạch Kính Đường có bệnh từ lâu, Tào thái hậu và Ngụy Quốc công chúa thường xin cho Thạch Kính Đường, song tướng tá của Lý Tòng Kha nhiều người khuyên nên giữ Thạch Kính Đường lại kinh thành. Tuy nhiên, Xu mật sứ Hàn Chiêu Dận và Lý Chuyên Mỹ cho rằng giữ Thạch Kính Đường ở lại Lạc Dương sẽ khiến một phò mã khác của Minh Tông là Tuyên Vũ tiết độ sứ Triệu Diên Thọ cảm thấy lo sợ [cha của Diên Thọ là Lô Long tiết độ sứ Triệu Đức Quân]. Lý Tòng Kha thấy Thạch Kính Đường gầy yếu, cho rằng ông không còn là mối đe dọa, cho phục làm Hà Đông tiết độ sứ, nói rằng "Thạch lang không chỉ thân mật, mà còn đồng gian nan với ta từ thiếu thời. Nay ta là Thiên tử, sao không dựa vào Thạch lang?"

Sau khi Thạch Kính Đường trở về Hà Đông, Khiết Đan nhiều lần xâm nhập các trấn phía bắc của Hậu Đường. Thạch Kính Đường và Triệu Đức Quân nhiều lần yêu cầu tăng viện để chống Khiết Đan, và họ được phép tích binh lính và vật tư tại trấn của họ. Thạch Kính Đường lo sợ rằng Lý Tòng Kha có thể vẫn nghi ngờ mình, ông hối lộ cho hầu cận của Tào thái hậu nhằm dò xét mật mưu của Lý Tòng Kha tại Lạc Dương, biết rõ sự tình, ngoài ra hai nhi tử của Thạch Kính Đường cũng làm nội sử tại Lạc Dương. và troing Tư trị thông giám là Thạch Trọng Dận (石重殷) và Thạch Trọng Duệ (石重裔). tiết độ sứ Trương Kính Đạt làm phó của Thạch Kính Đường, tức Bắc diện hành doanh phó tổng quản, nhằm phân tán quyền lực của Thạch Kính Đường., Triệu Đức Quân chạy đến Lộ châu rồi đầu hàng. Da Luật Đức Quang nói với Hậu Tấn Cao Tổ rằng nếu quân Khiết Đan tiến về hướng nam sẽ khiến người Hán rất lo sợ, do vậy lưu lại tại Lộ châu và để cho Hậu Tấn Cao Tổ đem quân Hậu Tấn tiến về Lạc Dương. Ngày Tân Tị (26) tháng 11 nhuận (11 tháng 1), do thấy tình thế vô vọng, Lý Tòng Kha cùng một số quan lại tự thiêu tại Lạc Dương. Hậu Tấn Cao Tổ tiến vào thành trong chiều tối hôm đó, quân Hậu Đường đều giải giáp đầu hàng, Hậu Tấn Cao Tổ miễn trừng phạt.

Sang tháng 6 ÂL, Phạm Diên Quang nổi dậy, Hậu Tấn Cao Tổ huy động binh sĩ trấn áp Phạm Diên Quang, các đạo quân chính nằm dưới quyền Thị vệ đô quân sứ Dương Quang Viễn và Hộ thánh đô chỉ huy sứ Đỗ Trọng Uy. Hậu Tấn rơi vào hỗn loạn một thời gian sau khi Phạm Diên Quang thuyết phục được tướng Hậu Tấn là Trương Tòng Tân nổi dậy tại Lạc Dương, Trương Tòng Tân còn giết đượch các hoàng tử của Hậu Tấn Cao Tổ là Thạch Trọng Tín (石重信) và Thạch Trọng Nghệ (石重乂). Binh sĩ của Dương Quang Viễn cũng cố thuyết phục chủ tướng nổi dậy, ủng hộ người này làm hoàng đế, song Dương Quang Viễn từ chối đề nghị này. Đỗ Trọng Uy nhanh chóng đánh bại Trương Tòng Tân, Phạm Diên Quang thấy tình thế bất lợi nên đề nghị đầu hàng. Ban đầu, Hậu Tấn Cao Tổ từ chối chấp thuận đầu hàng, song Dương Quang Viễn không thể nhanh chóng chiếm được thành Quảng Tấn. Đến thu năm 938, Hậu Tấn Cao Tổ chấp thuận cho Phạm Diên Quang đầu hàng, cuộc nổi dậy kết thúc. tiết độ sứ Lý Kim Toàn (李金全) bằng tướng Mã Toàn Tiết (馬全節), Lý Kim Toàn nổi dậy và quy phục Nam Đường. Hoàng đế Nam Đường Lý Biện khiển tướng Lý Thừa Dụ (李承裕) đi cứu viện Lý Kim Toàn song mục đích là để hộ tống người này về Nam Đường, để lại An Viễn cho Hậu Tấn. Tuy nhiên, Lý Thừa Dụ bất tuân lệnh của Lý Biện, cố gắng giữ thành An châu, kết quả bị Mã Toàn Tiết đánh bại và xử tử. Lý Biện sau đó gửi thư cho Hậu Tấn Cao Tổ, giải thích rằng Lý Thừa Dụ bất tuân lệnh. Hậu Tấn và Nam Đường sau đó ở trong trạng thái hòa bình.

Thành Đức tiết độ sứ An Trọng Vinh dự tính nổi dậy chống Hậu Tấn, liên minh với Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ An Tòng Tiến. An Trọng Vinh cũng liên tục khiêu khích Khiết Đan khi chặn và giết sứ giả. Tháng 6 năm Tân Sửu (941), An Trọng Vinh thượng biểu xưng với Hậu Tấn Cao Tổ nói rằng Khiết Đan thường xuyên cướp phá, cần tập hợp lực lượng tấn công Khiết Đan nhằm đoạt lại lãnh thổ và dân cư mà Khiết Đan chiếm trước đó. Theo khuyến nghị của Thang Duy Hàn, Hậu Tấn Cao Tổ tiến về Quảng Tấn nhằm chuẩn bị cho một chiến dịch chống An Trọng Vinh. Dự tính rằng An Tòng Tiến có thể nổi dậy khi mình rời khỏi Đại Lương, theo khuyến nghị của Hòa Ngưng, Hậu Tấn Cao Tổ để tụng tử là Thạch Trọng Quý lưu thủ Đại Lương. Theo Tư trị thông giám, Cao Ly Thái Tổ còn đề xuất với vua Hậu Tấn Cao Tổ của nhà Hậu Tấn rằng ông ta tấn công người Khiết Đan để trả thù cho vương quốc Bột Hải. Hơn nữa, trong Mười điều răn dành cho con cháu của mình, Cao Ly Thái Tổ tuyên bố rằng người Khiết Đan là "những con thú man rợ" và cần phải đề phòng.

Hậu Tấn Cao Tổ mất ngày Ất Sửu (13) tháng 6 (28 tháng 7). Tuy nhiên sau đó Phùng Đạo cùng Thị vệ mã bộ đô ngu hậu Cảnh Diên Quản thảo luận và cho rằng quốc gia cần một quân chủ nhiều tuổi hơn, vì vậy lập Thạch Trọng Quý làm người kế vị. Ngày Canh Dần (10) tháng 11 (20 tháng 12), táng Hậu Tấn Cao Tổ tại Hiển lăng.

  • Con nuôi: Diệm vương Thạch Trọng Dận Ngô vương Thạch Trọng Quý (sau này là Hậu Tấn Xuất Đế)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hậu Tấn Cao Tổ** (30 tháng 3, 892), tên thật là **Thạch Kính Đường** (石敬瑭), là hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Tấn, vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời
thumb|[[Bi Lâm, Tây An|Bảo tàng Bi Lâm ở Tây An, nơi lưu giữ các tác phẩm kinh điển bằng đá.]] **Khai Thành thạch kinh** (開成石經) hoặc **thạch kinh thời Đường** là một nhóm mười hai
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
nhỏ|260x260px|Lối vào phòng dưới đất của chùa Vân Cư Phòng Sơn, nơi cất giữ những bản kinh bằng đá của hai triều đại [[nhà Liêu|Liêu và Kim.]] **Kinh đá Phòng Sơn** (chữ Hán: 房山石經, _Phòng
**Hậu Đường Mẫn Đế** (), tên húy là **Lý Tùng Hậu** () (914–934), tiểu tự **Bồ Tát Nô** (菩薩奴), là một hoàng đế của triều Hậu Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc, cai trị từ
**Nam Đường** (tiếng Trung Quốc: 南唐; pinyin Nán Táng) là một trong 10 nước thời Ngũ đại Thập quốc ở trung-nam Trung Quốc được thành lập sau thời nhà Đường, tồn tại từ năm 937–975.
[[Tập tin:五代后唐(繁).png| ]] **Nhà Hậu Đường** là một trong năm triều đại trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, cai trị Bắc Trung Quốc từ năm 923 đến năm 937 ## Thành lập Lý Khắc
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
nhỏ|phải|[[Than đá|Than là một trong những nhiên liệu hóa thạch.]] **Nhiên liệu hóa thạch** là các loại nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình phân hủy kỵ khí của các sinh vật chết bị
**Vẫn thạch** là phần còn lại của thiên thạch đến từ vùng không gian giữa các hành tinh bay vào khí quyển, bị cháy mất một phần và rơi xuống bề mặt Trái Đất. Vẫn
**Trận Nam Kinh** diễn ra vào đầu tháng 12 năm 1937, là một phần của cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Quốc dân Cách mệnh quân và Lục quân Đế quốc Nhật Bản giao chiến
Ngày 15 tháng 2 năm 2013, một thiên thạch đã bay vào bầu khí quyển Trái Đất trên bầu trời nước Nga và đã trở thành một quả cầu lửa. Nó bay với vận tốc
**Thạch Đạt Khai** (tháng 3 năm 1831 – 25 tháng 6 năm 1863) () là Dực vương của Thái Bình Thiên Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia đình Thạch Đạt Khai sinh ra
**Thạch** là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 석, Romaja quốc ngữ: Seok) và Trung Quốc (chữ Hán: 石, Bính âm: Shi). Trong danh sách
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Tưởng Trung Chính** (; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: **Giới Thạch** (介石) nên còn gọi là **Tưởng Giới Thạch**, tên khai sinh: **Thụy Nguyên** (瑞元) là một
**Lý Tùng Kha** () (11 tháng 2 năm 885 – 11 tháng 1 năm 937), sử gọi là **Hậu Đường Mạt Đế** (後唐末帝) hay **Hậu Đường Phế Đế** (後唐廢帝) là hoàng đế cuối cùng của
**Sự biến Tào Thạch** (chữ Hán: 曹石之變, _Tào Thạch chi biến_) là một sự kiện diễn ra dưới triều vua Minh Anh Tông. Do công phò lập giúp giành lại ngôi vua từ tay người
**Vương An Thạch** (chữ Hán: 王安石 _Wang Anshi_; 18 tháng 12 năm 1021 – 21 tháng 5 năm 1086), tự **Giới Phủ** (介甫), hiệu **Bán Sơn Lão Nhân** (半山老人 _Banshan Laoren_), người ở Phủ Châu,
**Người Bắc Kinh**, trước đây gọi là **người vượn Bắc Kinh** (danh pháp hai phần: **_Homo erectus pekinensis_**, đồng nghĩa: **_Sinanthropus pekinensis_**), là một phân loài người đứng thẳng (_Homo erectus_). Các dấu vết khảo
thumb|Minh họa các pha về "meteoroid" vào khí quyển thành "meteor" nhìn thấy được, và là "meteorite" khi chạm bề mặt Trái Đất. nhỏ|Willamette Meteorite là thiên thạch to nhất được tìm thấy ở Hoa
Một xe [[VinFast VFe34 đang được sạc ở thị xã Kỳ Anh, năm 2023. Ô tô điện có thị phần thế giới khoảng 14% vào năm 2022, 18% vào năm 2023.]] Các phương tiện giao
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía nam giáp tỉnh Thái Bình, phía đông giáp tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng,
**Kinh Môn** là một thị xã cũ nằm ở phía đông bắc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thị xã Kinh Môn thuộc vùng bán sơn địa, một dãy núi đất trong cánh cung Đông Triều
Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc được chia ra thành các đơn vị hành chính sau: * 16 đơn vị cấp huyện ** 6 khu (quận) nội thành ** 6 khu (quận) ngoại thành **
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
thumb|Dương Hỗ **Dương Hỗ** (chữ Hán: 羊祜; 221-278) còn gọi là **Dương Hộ** hay **Dương Hựu**, tên tự là **Thúc Tử**, người Nam Thành, Thái Sơn, Thanh Châu, là nhà chiến lược, nhà quân sự,
Thạch Động là khối đá vôi nằm tại phía Tây Bắc của thành phố Hà Tiên. Đá vôi Thạch Động được các nhà địa chất xác định hình thành vào kỷ Permi, khoảng 250 triệu
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Lý Tùng Ích** (李從益, 931-23 tháng 6, 947), tước **Hứa vương** (許王), là một thân vương của triều Hậu Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc. Trong tình hình hỗn loạn sau khi Khiết Đan diệt
**Thạch Sùng** (chữ Hán: 石崇; 249-300) là quan nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời. ## Biết con không ai bằng cha Thạch
**Triệu Khắc Thạch** (; sinh tháng 11 năm 1947) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (_PLA_). Ông từng giữ chức vụ Ủy viên Quân ủy Trung ương Trung Quốc, Chủ nhiệm
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Thẩm Dương** (tiếng Trung giản thể: 沈阳市, _Shenyang_) là một thành phố ở Đông Bắc Trung Quốc. Đây là tỉnh lỵ của tỉnh Liêu Ninh, nằm ở phía trung-bắc của tỉnh. Thẩm Dương là thành
**Thạch** là một đơn vị đo lường dùng để tính thể tích ở các nước Đông Á khi xưa. ## Trung Quốc Ở Trung Quốc, "Thạch" có thể là đơn vị đo khối lượng hoặc
**Sa Đà** (), còn gọi là Xử Nguyệt (處月), Chu Da (朱邪 hay 朱耶) vốn là một bộ lạc Tây Đột Quyết vào thời nhà Đường, sinh sống theo lối du mục ở khu vực
Brasil có nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển, năm 2021 quốc gia này là nền kinh tế lớn thứ mười hai trên thế giới tính theo tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
**Thạch Thái Phong** (; sinh tháng 9 năm 1956) là giáo sư, thạc sĩ luật học, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XX, Phó
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Đường cao tốc Quảng Ninh – Lạng Sơn – Cao Bằng** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.10**, hay còn gọi là **đường cao tốc Tiên Yên – Đồng Đăng – Trà Lĩnh**) là tuyến đường
**Thạch Lam** (1910-1942), tên thật là **Nguyễn Tường Vinh**, là một nhà văn Việt Nam thuộc nhóm _Tự Lực văn đoàn_. Ông là em ruột của hai nhà văn khác cũng trong nhóm Tự Lực