✨Tōgō Heihachirō

Tōgō Heihachirō

Tōgō Heihachirō (東鄉平八郎; Hán-Việt: Đông Hương Bình Bát Lang; 27 tháng 1 năm 1848 – 30 tháng 5 năm 1934) là một võ sĩ Nhật Bản và là một quân nhân trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ông đã được phong các chức nguyên soái đại tướng hải quân, hầu tước, được trao Huân chương Hoa cúc, Huân chương quân công hạng nhất, được thờ như một vị thần cấp tòng nhất vị. Ông là một trong những anh hùng thủy tướng vĩ đại nhất của đất nước mặt trời mọc. Ông được báo chí phương Tây đặt cho biệt hiệu "Nelson của phương Đông".

Đầu đời

Tōgō sinh ngày 27 tháng 1 năm 1848 (lịch dương) ở quận Kachiyacho, thành phố Kagoshima, phiên bang Satsuma (hiện nay là tỉnh Kagoshima) ở nước Nhật thời phong kiến. Cha ông là một Samurai, người phục vụ cho thị tộc Shimazu, Tōgō có ba người anh em.

Kachiyacho là một trong những quận sinh sống của chiến binh samurai tại thành phố Kagoshima, trong đó rất nhiều nhân vật lừng danh khác của thời kỳ Minh Trị từng được sinh ra tại đây như Saigō Takamori và Okubo Toshimichi. Họ đã vươn lên thành những nhân vật then chốt dưới thời Thiên hoàng Minh Trị, một phần vì thị tộc Shimazu là một lực lượng quân sự hùng mạnh cũng như những yếu tố về chính trị trong chiến tranh Mậu Thìn chống lại Mạc phủ Tokugawa (Đức Xuyên Mạc phủ) và cả những yếu tố chính trị trong cuộc Minh Trị duy tân.

Những trận chiến Tokugawa (1863-1869)

Trải nghiệm chiến đấu đầu tiên của Tōgō là trong chiến tranh Anh-Satsuma (tháng 8 năm 1863) khi ông 15 tuổi, trong đó thành phố Kagoshima bị hải quân Hoàng gia Anh oanh tạc nhằm trừng trị đại danh của tỉnh Satsuma vì vụ ám sát Charles Lennox Richardson trên đường Tōkaidō năm trước đó, trong đó Nhật Bản từ chối trả tiền bồi thường.

Năm sau đó, phiên Satsuma thành lập một đội hải quân, trong đó Tōgō và hai người anh của ông được kết nạp vào đội. Tháng 1 năm 1868, trong suốt chiến tranh Mậu Thìn, Tōgō được phong lên làm người cầm lái cho tàu chiến hơi nước Kasuga, con tàu đã tham gia trong thủy chiến Awa, gần Osaka, chống lại lực lượng hải quân của Mạc Phủ, đây là trận thủy chiến đầu tiên của Nhật Bản giữa những hạm đội tàu hiện đại.

Khi mà trận chiến lan tới Bắc Nhật Bản, Tōgō trở thành sĩ quan hạng ba trên tàu Kasuga trong các trận chiến cuối cùng với tàn dư của lực lượng Mạc Phủ như trận thủy chiến Miyako và thủy chiến Hakodate (1869).

Sau khi cuộc chiến kết thúc vào mùa thu năm 1869, Tōgō, theo chỉ dẫn của gia tộc Satsuma, lần đầu tiên đến cảng ở Yokohama để học tiếng Anh. Ông cư trú tại Yokohama với Daisuke Shibata, một quan chức chính phủ thành thạo tiếng Anh và học phát âm phát âm từ Charles Wagman, phóng viên của báo The Illustrated London. Tōgō đã tiến bộ nhanh chóng và hoàn thành vào năm 1870, đồng thời có được vị trí tại Trường Huấn luyện Hải quân Hoàng gia Nhật Bản mới thành lập tại Tsukiji, Tokyo.

Đào tạo tại Anh (1871–1878)

Vào tháng 2 năm 1871, Togo và mười một học viên sĩ quan Nhật Bản khác đã được lựa chọn để đi đến Anh để tiếp tục nhận đào tạo hải quân. Togo sống và học tập tại Anh trong thời gian bảy năm. Đến Tháng 4 năm 1871 sau một cuộc hành trình 80 ngày tại cảng Southampton, Togo đầu tiên tới London, lúc bấy giờ là thành phố đông dân nhất trên thế giới.

Các học viên Nhật Bản đã được tách ra và gửi đến Trung tâm tiếng Anh để học tập tiếng Anh, phong tục và cách cư xử. Togo ban đầu được gửi đến nội trú tại cảng hải quân lớn ở Plymouth, để học tập về Hải quân Hoàng gia Anh. sau đó, ông đã nghiên cứu lịch sử, toán học và kỹ thuật tại một trường dự bị hải quân ở Portsmouth dưới sự chỉ đạo của một giáo viên và mục sư địa phương để chuẩn bị cho nhập học vào trường Cao đẳng hải quân Hoàng gia tại Dartmouth.

Vào năm 1872 khi Hải quân Anh cho biết không có nơi ở tại Dartmouth cho các học viên tiếng Nhật, Togo đã nhập học như một thiếu sinh quân trên HMS Worcester. Sau hai năm đào tạo, Togo đã tốt nghiệp với vị trí thứ hai trong lớp.

Trong năm 1875, Tōgō đã đi khắp thế giới như một thủy thủ bình thường trên tàu huấn luyện Hampshire của Anh, ông rời Anh vào tháng Hai và ở bảy mươi ngày trên biển cho đến khi tới Melbourne. Togo đã khởi hành ba mươi nghìn dặm trước khi trở về Anh vào tháng năm 1875. Trong suốt mùa thu và mùa đông năm 1875-1876, Togo đã trải qua năm tháng nghiên cứu toán học tại Cambridge và tiếng Anh dưới sự chỉ đạo của Rev. Arthur Douglas Capel.

Tōgō vắng mặt ở Nhật Bản khi cuộc nổi loạn Satsuma diễn ra vào năm 1877. Ba anh em của ông đều chiến đấu trong cuộc nổi loạn: hai người đã bị giết trong trận chiến, và người thứ ba chết ngay sau kết thúc cuộc nổi loạn. Sau đó, Tōgō thường tỏ ra hối tiếc về số phận của cuộc nổi loạn và cả ân nhân của ông, Saigō Takamori.

Trở về nhật bản

Tōgō, được thăng cấp trung úy, cuối cùng đã trở về Nhật Bản vào ngày 22 tháng 5 năm 1878 trên con tàu Hiei., sau đó được chuyển đến tàu hộ tống Amagi. Năm 1882, Tōgō theo tàu của mình đổ bộ tại Seoul sau sự kiện Imo.

Năm 1883, Tōgō được giao quyền chỉ huy con tàu đầu tiên của mình và hợp tác với các hạm đội Anh, Mỹ và Đức trong thời gian này.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tōgō Heihachirō** (東鄉平八郎; Hán-Việt: _Đông Hương Bình Bát Lang_; 27 tháng 1 năm 1848 – 30 tháng 5 năm 1934) là một võ sĩ Nhật Bản và là một quân nhân trong Hải quân Đế
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**Hải chiến Tsushima** hay **Hải chiến Đối Mã** (tiếng Nhật: 日本海海戦, _Nihonkai-Kaisen_; âm Hán-Việt Nhật Bản hải hải chiến; tiếng Nga: Цусимское сражение, _Stusimkoye Srazhenie_) là một trận chiến trên biển trong Chiến tranh Nga-Nhật
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
là một hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là hạm đội không thường trực, được thành lập trên cơ sở ít nhất 2 hạm đội thường trực. Hải quân Nhật gọi
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
là huân chương cao quý nhất của Nhật Bản. Đại thụ chương (_Grand Cordon_) được thành lập vào năm 1876 bởi Thiên hoàng Minh Trị; Vòng cổ (_cảnh sắc_) được thêm vào ngày 4 tháng
**_Kasuga Maru_** (春日丸) là một tàu chiến gỗ chạy bằng động cơ hơi nước của Nhật Bản thời Bakumatsu và đầu thời kỳ Minh Trị, phục vụ hải quân Phiên Satsuma, và sau đó là
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Lý Thuấn Thần** (Hanja: , Hangul: 이순신, Romanja: **Yi Sun-sin**, 8 tháng 3 năm 1545 – 19 tháng 11 năm 1598) là nhà quân sự, đô đốc thủy quân, danh tướng kháng Nhật của nhà
là một món ăn Nhật Bản chứa thịt, khoai tây và hành tây hầm trong xì dầu đã làm ngọt và mirin, đôi khi với _ito konnyaku_ và rau củ. Thông thường, khoai tây là
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
phải|nhỏ|300x300px|Trụ sở Vùng Hải quân Sasebo vào khoảng năm 1930 là khu vực thứ ba trong số năm quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của
Các hạm đội tham gia trận Tsushima, 27/28 tháng 5 năm 1905 ## viền|45x45px|Japanese Naval Ensign Hạm đội liên hợp Nhật ### Chiến đội một *thế=|nhỏ|490x490px|Kì hạm của Hạm đội Nhật, Thiết giáp hạm [[Mikasa
**Pháo kích Kagoshima**, còn gọi là , là một trận chiến giữa Anh và phiên Satsuma ở Kagoshima từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 8 năm 1863. Người Anh đang cố gắng lấy tiền
Ngày **27 tháng 1** là ngày thứ 27 trong lịch Gregory. Còn 338 ngày trong năm (339 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *98 – Traianus kế vị cha nuôi Nerva làm hoàng đế
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926. Tên húy của Thiên
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
là thủ phủ của tỉnh Kagoshima tại mũi tây nam của đảo Kyūshū Nhật Bản, là thành phố lớn nhất trong tỉnh này. Thành phố thường được ví là 'Napoli của thế giới phương Đông'
(sinh ngày 22 tháng 2 năm 1861 - 24 tháng 8 năm 1923) là một nguyên soái của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và thủ tướng thứ 21 của Nhật Bản từ ngày 12
diễn ra từ 4 tháng 5-10 1869, giữa tàn quân của hải quân Mạc phủ Tokugawa, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và Hải quân Đế quốc Nhật Bản
diễn ra ở Nhật Bản từ 20 tháng 10 năm 1868 đến 17 tháng 5 năm 1869, giữa tàn quân Mạc phủ, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và
diễn ra ngày 28 tháng 1 1868 trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản, ở vùng vịnh Awa gần Osaka. Các tàu tham gia vào trận đánh của Mạc phủ Tokugawa và các thuyền
là một tỉnh của Nhật Bản, nằm ở cực Nam của đảo Kyūshū. Thủ phủ là thành phố Kagoshima. ## Địa lý trái|Bản đồ tỉnh Kagoshima. **Kagoshima** nằm ở cực Nam của đảo Kyūshū, bao
**Trận Phong Đảo** (tiếng Nhật: 豊島沖海戦) ("Phong Đảo xung hải chiến") là trận hải chiến đầu tiên trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Nó diễn ra ngoài khơi Asan vào ngày 25 tháng 7
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Tsushima** (対馬, Hán Việt: _Đối Mã_) là một hòn đảo trong quần đảo Nhật Bản nằm giữa eo biển Triều Tiên. Phần đất liền chính của Tsushima từng là một hòn đảo duy nhất, song
**Chiến dịch Vengeance** (tiếng Việt: **Chiến dịch Báo thù**) là một chiến dịch quân sự của Quân đội Hoa Kỳ ở Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
**Đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản** là các quân hàm cấp tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1945. Trên thực tế, các cấp bậc đô đốc
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được