✨Trận Hakodate

Trận Hakodate

diễn ra ở Nhật Bản từ 20 tháng 10 năm 1868 đến 17 tháng 5 năm 1869, giữa tàn quân Mạc phủ, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và quân đội của triều đình mới thành lập (bao gồm chủ yếu là quân đội của Chōshū và Satsuma). Đây là bước cuối cùng của Chiến tranh Boshin, và diễn ra ở xung quanh Hakodate ở hòn đảo phía Bắc Nhật Bản Hokkaidō. Trong tiếng Nhật, nó còn được gọi là

Binh lính của Mạc phủ Tokugawa cũ sát cánh cùng một nhóm cố vấn quân sự Pháp, thành viên của Phái đoàn quân sự đầu tiên của Pháp đến Nhật Bản đã huấn luyện họ trong những năm 1867-1868, do Jules Brunet dẫn đầu.

Bối cảnh

Chiến tranh Boshin bùng nổ năm 1868 giữa quân đội ủng hộ việc phục hòi quyền lực chính trị của Thiên hoàng và chính quyền Mạc phủ Tokugawa. Chính quyền Meiji đánh bại quân đội của Shogun trong Trận Toba-Fushimi và sau đó chiếm sào huyệt của Tướng quân Shogun tại Edo.

Enomoto Takeaki, Phó Tư lệnh Hải quân Mạc phủ, từ chối giao nộp hạm đội của ông cho chính quyền mới và rời đến Shinagawa ngày 20 tháng 8 năm 1868, với 4 tàu chiến hơi nước (Kaiyō, Kaiten, Banryū, Chiyodagata) và 4 tàu vận tải hơi nước (Kanrin Maru, Mikaho, Shinsoku, Chōgei) cùng 2.000 thủy thủ, 36 thành viên của đội "Yugekitai" (Du kích đội) do Iba Hachiro dẫn đầu, vài viên chức của Mạc phủ cũ bao gồm Phó Tổng Tư lệnh của Quân đội Mạc phủ Matsudaira Taro, Nakajima Saburozuke, và thành viên của phái đoàn quân sự Pháp tới Nhật Bản do Jules Brunet dẫn đầu.

Ngày 21 tháng 8, hạm đội gặp phải một trận bão lớn ngoài khơi Choshi, trong đó tàu Mikaho bị lạc và tàu Kanrin Maru, bị thương nặng, buộc phải cập bờ, và bị bắt giữ tại Shimizu. Binh lính phản loạn của Mạc phủ cũ được trở đến Hokkaidō. Một phần hạm đội của Enomoto Takeaki ngoài khơi [[Shinagawa. Từ phải sang trái: Kaiten, Kaiyō, Kanrin, Chōgei, Mikaho. BanryōChiyodagata vắng mặt. Ảnh năm 1868.]] Phần còn lại của hạm đội đến cảng Sendai ngày 26 tháng 8, một trong những trung tâm của Áo Vũ Việt Liệt Phiên Đồng Minh (奥羽越列藩同盟) chống lại chính quyền mới, bao gồm các phiên Sendai, Yonozawa, Aizu, Shōnai và Nagaoka.

Quân triều đình tiếp tục tiến lên phía Bắc, chiếm thành Wakamatsu, khiến vị trí tại Sendai không thể trụ vững được. Ngày 12 tháng 10 năm 1868, hạm đội rời Sendai, sau khi nhận thêm 2 tàu nữa (OeHou-Ou, trước đó mượn của phiên Sendai từ Mạc phủ), và khoảng 1.000 lính: binh lính Mạc phủ cũ dưới trướng Otori Keisuke, lính Shinsengumi dưới trướng Hijikata Toshizo, Yugekitai của Katsutaro Hitomi, cùng thêm vài cố vấn quân sự Pháp (Fortant, Marlin, Bouffier, Garde), những người đã đến Sendai bằng đường bộ.

Trận Hakodate

Chiếm phía Nam đảo Hokkaidō

Quân nổi loạn, số lượng khoảng 3.000 người và đi bằng tàu cùng với Enomoto Takeaki đến Hokkaido vào tháng 10 năm 1868. Họ đổ bộ ở vịnh Takanoki, đằng sau Hakodate ngày 20 tháng 10. Hijikata Toshizo và Otori Keisuki mỗi người dẫn một chi đội tiến theo hướng Hakodate. Họ tiêu diệt quân kháng cự tại địa phương của phiên Matsumae, vốn đã tuyên bố trung thành với chính quyền Meiji mới, và chiếm đồn Goryokaku ngày 26 tháng 10, nơi trở thành sở chỉ huy của quân phiến loạn.

trái|Đồn [[Goryokaku, sở chỉ huy của quân phiến loạn.]] Nhiều cuộc hành quân được tổ chức để kiểm soát hoàn toàn phía Nam bán đảo Hokkaido. Ngày 5 tháng 11, Hijikata, chỉ huy 800 lính và được sự trợ giúp của tàu chiến Kaiten and Banryo chiếm thành Matsumae. Ngày 14 tháng 11, Hijikatavà Matsudaira cùng kéo về thành phố Esashi, với sự trợ giúp thêm của kỳ hạm Kaiyo Maru, và tàu vận tải Shinsoku. Không may, Kaiyō Maru bị đắm trong một cơn bão lớn ở Esashi, và Shinsoku cũng bị chìm khi đến giải cứu, giáng một đòn nặng nề vào quân phiến loạn.

Sau khi tiêu diệt mọi sự kháng cự tại địa phương, ngày 25 tháng 12, phiến quân thành lập Cộng hòa Ezo, với tổ chức chính quyền theo kiểu Hoa Kỳ, với Enomoto Takeaki, làm Tổng thống (総裁). Trong khi chính phủ Pháp và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland công nhận có điều kiện nước Cộng hòa mới, chính quyền Meiji ở Tokyo thì không.

Một mạng lưới phòng ngự được xây dựng ở xung quanh Hakodate với dự đoán về một cuộc tấn công của binh lính triều đình mới. Binh lính Cộng hòa Ezo được cấu trúc dưới sự lãnh đạo chung Pháp-Nhật, với Tổng Tư lệnh Otori Keisuke tiếp theo là Jules Brunet, và mỗi trong số 4 trung đoàn do sĩ quan Pháp chỉ huy (Fortant, Marlin, Cazeneuve, Bouffier), tiếp theo là 8 "bán trung đoàn" do người Nhật chỉ huy. 2 cựu sĩ quan hải quân Pháp, Eugène Collache và Henri Nicol sau đó gia nhập phiến quân, và Collache được giao nhiệm vụ xây dựng các công trình phòng ngự dọc nhũng ngọn núi lửa quanh Hakodate, trong khi Nicol có nhiệm vụ tái tổ chức lại Hải quân.

Trong khi đó, Hạm đội triều đình nhanh chóng được hình thành xung quanh thiết giáp hạm Kōtetsu, được chính quyền Meiji mua từ Hoa Kỳ. Những con tàu khác của triều đình là Kasuga, Hiryū, Teibo, Yoshun, Moshun, được các phiên Saga, Chōshū và Satsuma cung cấp cho chính quyền mới thành lập năm 1868. Hạm đội rời Tokyo ngày 9 tháng 3 năm 1869, và tiến lên phía Bắc.

Hải chiến Miyako

Thiết giáp hạm [[Thiết giáp hạm Kōtetsu|Kōtetsu của hải quân triều đình.]] Hải quân triều đình tới Miyako ngày 20 tháng 3. Dự tính quân triều đình sẽ tới, phiến quân tổ chức một kế hoạch táo bạo chiếm tàu chiến mới hùng mạnh Kōtetsu.

3 tàu chiến được củ đi thực hiện cuộc tấn công bất ngờ, còn được gọi là Hải chiến Miyako: Kaiten, chở các sĩ quan ưu tú của Shinsengumi cùng sĩ quan hải quân Pháp Henri Nicol, tàu chiến Banryu, với cựu sĩ quan hải quân Pháp Clateau, và tàu chiến Takao, với cựu sĩ quan hải quân Pháp Eugène Collache trên boong. Để tạo ra bất ngờ, tàu Kaiten tiến vào cảng Miyako với cờ Mỹ. Họ trương cờ Cộng hòa Ezo lên vài giây sau khi cập boong tàu Kōtetsu. Thủy thủ đoàn Kōtetsu đẩy lui thành công được cuộc tấn công với súng máy, với thương vong lớn của quân tấn công. 2 tàu chiến Ezo chạy về Hokkaidō, nhưng chiếc Takao bị đuổi theo và tự đánh chìm.

Quân triều đình đổ bộ

Quân triều đình, số lượng 7.000 lính, đổ bộ xuống Hokkaido ngày 9 tháng 4 năm 1869. Họ dần dần chiếm được nhiều vị trí phòng ngự, cho đến khi trận cuối cùng diễn ra quanh đồn GoryokakuBenten Daiba quanh thành phố Hakodate.

Cuộc chiến lớn đầu tiên ở Nhật Bản giữa 2 hải quân hiện đại, Hải chiến Hakodate, diễn ra cho đến khi hết chiến tranh, trong suốt tháng 5 năm 1869.

Trước khi đầu hàng, vào tháng 5 năm 1869, các cố vấn quân sự của Cộng hòa Wzo chạy đến tàu chiến Hải quân Pháp đậu tại vịnh Hakodate, chiếc Coëtlogon, từ đó họ chạy đến Yokohama và từ đó về Pháp.

Sau khi mất gần nửa quân số và phần lớn tàu, quân đội Cộng hòa Ezo đầu hàng chính quyền Meiji ngày 17 tháng 5 năm 1869.

Sau trận đánh

phải|[[Hijikata Toshizō|Hijikata Toshizo, chỉ huy Shinsengumi, chiến đấu chống lại quân triều đình và tử trận ở Hakodate.]] Trận đánh đánh dấu sự kết thúc của chế độ phong kiến già cỗi ở Nhật Bản, và chấm dứt sự kháng cự vũ trang với cuộc Minh Trị Duy Tân. Sau vài năm bị giam giữ, vài chỉ huy của phiến quân được phục hồi, và tiếp tục sự nghiệp chính trị rạng rõ ở nước Nhật thống nhất: đặc biệt là Enomoto Takeaki đã giữ nhiều chức vụ Bộ trưởng quan trọng trong thời Meiji.

Chính quyền mới, sau khi được củng cố, sớm thành lập nhiền cơ quan sau cuộc chiến. Đặc biệt, Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thành lập vào tháng 7 năm 1869, và kết nạp nhiều binh lính và tàu thuyền đã tham chiến trong trận Hakodate.

Đô đốc tương lai Togo Heihachiro, anh hùng của Trận Tsushima năm 1905, tham chiến trong trận này với tư cách pháo thủ trên tàu chiến hơi nước có mái chèo Kasuga.

Miêu tả sau này về trận đánh

Mặc dù Trận Hakodate có sự tham gia của những vú khi hiện đại nhất khi đó (tàu chiến hơi nước, và thậm chí cả một thiết giáp hạm, được phát minh ra 10 năm trước với thiết giáp hạm hải hành đầu tiên, con tàu Pháp La Gloire), súng máy, đại bác Armstrong, đồng phục và phương pháp tác chiến hiện đại, phần lớn sự miêu tả của Nhật Bản về trận đánh này trong vài năm sau đó của cuộc Minh Trị Duy Tân thể hiện sự xuất hiện lỗi thời của samurai truyền thống chiến đấu với kiếm, có lẽ trong cố gắng để lãng mạn hóa cuộc giao tranh, hay để giảm đến mức tối thiểu sự hiện đại hóa đã đạt được trong thời Bakumatsu (1853-1868). A Sự thể hiện của Nhật Bản về trận Hakodate (函館戦争の図), khoảng năm 1880. Cuộc tấn công của kị binh, với một chiếc tàu chìm ở đằng sau, được dẫn đầu bởi các chỉ huy của phiến quân, từ trái sáng phải, [[Enomoto Takeaki|Enomoto (Kinjiro) Takeaki, Otori Keisuke, Matsudaira Taro. Samurai trong trang phục màu vàng là Hijikata Toshizo. Lính Pháp được vẽ ở sau đội kỵ binh, mặc quần trắng. Quân triều đình trong đồng phục hiện đại ở bên phải ("Xích hùng" (赤熊, Shaguma) bộ tóc giả thể hiện là binh lính Tosa ("Bạch hùng" (白熊, Haguma) bộ tóc giả từ Chōshū, "Hắc hùng" (黒熊, Koguma) tóc giả từ Satsuma)), với một tàu chiến hơi nước hiện đại ở đằng sau.]]

Tầm quan trọng

Sự tham dự của người Pháp

Trận Hakodate cũng hé lộ một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản khi ấy Pháp can dự sâu vào nội tình nước Nhật. Tương tự như vậy, các lợi ích và hành động của Anh và Mỹ ở Nhật Bản cũng khá quan trọng, nhưng ít thấy hơn so với Pháp. Sự tham dự này của người Pháp là một phần của các hành động ngoại giao sâu rộng, và thường là tai hại của Đế chế Pháp dưới thời Napoleon III, và tiếp theo Chiến dịch Mexico. Các thành viên của phái đoàn Pháp đi theo các đồng minh người Nhật lên phía Bắc đều giải ngũ khỏi quân đội Pháp trước khi đi theo họ. Mặc dù họ nhanh chóng được phục hồi khi trở về Pháp, và một số người, ví dụ như Jules Brunet có một sự nghiệp xán lạn sau đó, sự tham dự của họ không được dự tính trước hay hướng dẫn về chính trị, mà chỉ là một sự lựa chọn và nhận thức của cá nhân. Mặc dù bại trận, và lại thua trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ. Nước Pháp tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản: Phái đoàn quân sự thứ hai được mời đến năm 1872, và hạm đội hiện đại đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được đóng dưới sự giám sát của kỹ sư Pháp Emile Bertin trong những năm 1880.

Hiện đại hóa

Mặc dù công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản nói chung được xem là bắt đầu từ thời Meiji (1868), nó thực ra đã bắt đầu nhiều từ khoảng 1853 trong những năm cuối cùng của Mạc phủ Tokugawa (Bakumatsu). Trận Hakodate năm 1869 thể hiện hai kẻ địch tinh vị trong một cuộc chiến hiện đại về cơ bản, nơi mà sức hơi nước và súng đóng vai trò quyết định, mặc dù vài yếu tố của trận đánh truyền thống rõ ràng vẫn còn. Một số lượng lớn tri thức khoa học và công nghệ phương Tây đã du nhập và Nhật Bản từ khoảng năm 1720 qua rangaku (Lan học), môn học về khoa học phương Tây, và từ năm 1853, Mạc phủ Tokugawa đã vô cùng tích cực trong việc hiện đại hóa đất nước và mở cửa cho sự ảnh hưởng bên ngoài. Phong trào Phục Đế, dự trên tư tưởng Sonno Joi là một phản ứng với quá trình hiện đại hóa và quốc tế hóa, mặc dù, cuối cùng, Thiên hoàng Meiji đã chọn đi theo chính sách tương tự dưới nguyên tắc Fukoku Kyohei (Phú Quốc, Cường Binh). Một vài cựu samurai vốn ủng hộ ông từ Satsuma, ví dụ như Saigō Takamori sẽ nổi loạn chống lại tình hìng này, dẫn đến cuộc Nổi loạn Satsuma năm 1877.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
diễn ra ở Nhật Bản từ 20 tháng 10 năm 1868 đến 17 tháng 5 năm 1869, giữa tàn quân Mạc phủ, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và
diễn ra từ 4 tháng 5-10 1869, giữa tàn quân của hải quân Mạc phủ Tokugawa, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và Hải quân Đế quốc Nhật Bản
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
là một trường trung học và cao đẳng kết hợp ở Hakodate, Hokkaidō, Nhật Bản. Trường Trung học & Cao đẳng La Salle (thành phố Kagoshima, huyện Kagoshima) do Tu viện La Salle thành lập
thumb|[[Không ảnh|Ảnh chụp từ trên không của Shiryōkaku, với sự cung cấp của Thông tin hình ảnh đất quốc gia (ảnh màu), Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.]] là một công
Tàu chiến _[[Tàu chiến Kaiten|Kaiten_ đóng vai chính trong trận này.]] là một trận đánh trong Chiến tranh Boshin ngày 6 tháng 5 năm 1869 (25 tháng 3 âm lịch). ## Chuẩn bị Sau khi
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
nhỏ|Các đơn vị hành tỉnh cũ của Nhật Bản vào năm 1867, trước khi cải cách. là một cuộc cải cách hành chính được thực hiện bởi chính quyền Minh Trị vào năm 1868, trong
là một tòa thành năm góc ở thành phố Hakodate của Nhật Bản trên đảo Hokkaido. Nó là pháo đài chính của Cộng hòa Ezo tồn tại trong thời gian ngắn. ## Lịch sử Goryōkaku
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**USS _Chester_ (CL/CA-27)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt
Ngày **17 tháng 5** là ngày thứ 137 (138 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 228 ngày trong năm. ## Sự kiện *528 – Thảm sát Hà Âm: Sau khi chiếm Lạc Dương, Nhĩ
là thị trấn thuộc huyện Urakawa, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 12.074 người và mật độ dân số là
**Jules Brunet** (2 tháng 1 năm 1838 – 12 tháng 8 năm 1911) là một sĩ quan quân đội Pháp nổi tiếng trong cuộc chiến tranh Boshin. Ông được gửi đến Nhật Bản với phái
, (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1853 mất ngày 10 tháng 1 năm 1924), là một samurai cuối thời Edo, sau đó trở thành một sĩ quan thuộc quân đội Đế quốc Nhật Bản
**André Cazeneuve** (10 tháng 12 năm 1817 – 20 tháng 8 năm 1874) là quân nhân người Pháp từng huấn luyện ngựa trong Đội cận vệ của Hoàng đế Napoléon III với cấp bậc hạ
**Bá tước ,** (9 tháng 11, 1840 - 23 tháng 8, 1900), còn được gọi là **Kuroda Ryōsuke** (黑田 了介, "Hắc Điền Liễu Giới"), là một chính trị gia Nhật Bản thời Meiji, và Thủ
**Arthur Fortant** (14 tháng 6 năm 1829 – 10 tháng 4 năm 1901) là trung sĩ người Pháp của Trung đoàn Cận vệ Pháo binh Pháp. Ông là thành viên của phái bộ quân sự
**François Bouffier** (1844 – 1881) là hạ sĩ người Pháp ở thế kỷ 19, trung sĩ thuộc Tiểu đoàn 8 Bộ binh Lục quân Pháp. Ông là thành viên của phái bộ quân sự Pháp
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
**** là một quốc gia độc lập tồn tại trong một thời gian ngắn do những cựu thần cùng quan chức của chính quyền Mạc phủ Tokugawa thành lập vào ngày 27 tháng 1 năm
là một công sự quan trọng của Cộng hòa Ezo vào năm 1868–1869. Nó nằm ở lối vào của vịnh Hakodate, phía bắc đảo Hokkaidō, Nhật Bản. Benten Daiba do kiến trúc sư Takeda Ayasaburō
, tên trước đây **Ezo**, **Yezo**, **Yeso**, **Yesso** là đảo lớn thứ hai của Nhật Bản. Về mặt hành chính, Hokkaido đóng vai trò như một vùng địa phương kiêm tỉnh đạo lớn nhất Nhật
là thủ phủ của tỉnh Hokkaidō, phía bắc Nhật Bản, và là một thành phố quốc gia. Sapporo có dân số đứng hạng thứ năm và diện tích đứng thứ ba ở Nhật Bản. Nhiều
sau này đổi tên là là tàu chiến bọc thép đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đóng tại Bordeaux, Pháp vào năm 1864 cho Hải quân Liên minh Hoa Kỳ dưới tên
là một sĩ quan Hải quân Tokugawa trong Chiến tranh Boshin, giữ chức vụ Thuyền trưởng tàu chiến Banryū trong Trận hải chiến Hakodate. ## Tiểu sử Bankichi chào đời tại xứ Izu, là con
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Hệ thống địa chỉ của Nhật Bản** được sử dụng để xác định một địa điểm cụ thể tại Nhật Bản. Khi được viết bằng các ký tự tiếng Nhật, các địa chỉ bắt đầu
là vị Thiên hoàng thứ 121 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông ở ngôi từ ngày 10 tháng 3 năm 1846 tới ngày 30 tháng 1 năm 1867. Tên thật
**Tử tước** là một Đô đốc Hải quân Nhật Bản trung thành với Mạc phủ Tokugawa, chiến đấu chống lại chính quyền Meiji cho đến khi kết thúc Chiến tranh Boshin, nhưng sau đó phục
**_Chiếc đũa quyền năng: Linh hồn samurai_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Bright: Samurai Soul_**) là phim điện ảnh anime năm 2021 do Ishiguro Kyōhei đạo diễn, với phần kịch bản do Yokote Michiko chấp bút.
275 px|thumb|right|[[Đền Iwashimizu, một đền thờ thần Hachiman ở Yawata, Kyoto.]] Một , cũng có tên là là một Thần xã thờ _thần_ Hachiman. Các đền thờ này có số lượng nhiều thứ hai trong
thumb|Người thứ hai từ bên phải là Matsudaira Tarō. Những người khác gồm [[Ōzeki Masuhiro, Katsu Kaishū, Inaba Masami, Ishikawa Shigetaka, Robert B. Van Valkenburgh (Công sứ Mỹ), Ezure Akinori (Ngoại quốc phụng hành).]] là
**USS _Alfred A. Cunningham_ (DD-752)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Nhật Bản 2023**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (Nhật Bản) xác nhận
**USS _Bugara_ (SS-331)** là một từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
**USS _Archerfish_ (SS/AGSS-311)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ của Hải quân Hoa Kỳ, và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá mang rổ. _Archerfish_ nổi
là thủ đô trên thực tế và là một trong 47 tỉnh của Nhật Bản thuộc vùng Kanto, phía đông của đảo chính Honshu. Đây là nơi đặt Hoàng cung và các cơ quan đầu
**USS _Van Valkenburgh_ (DD-656)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Cook_ (APD-130)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-714**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa
**_Kasuga Maru_** (春日丸) là một tàu chiến gỗ chạy bằng động cơ hơi nước của Nhật Bản thời Bakumatsu và đầu thời kỳ Minh Trị, phục vụ hải quân Phiên Satsuma, và sau đó là
là một bộ manga của tác giả Kurono Nanae (黒乃 奈々絵) sáng tác từ năm 2001 đến năm 2020, thuộc thể loại hành động, lịch sử. Nguyên gốc truyện là do Kurono sáng tác trước
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**Tōgō Heihachirō** (東鄉平八郎; Hán-Việt: _Đông Hương Bình Bát Lang_; 27 tháng 1 năm 1848 – 30 tháng 5 năm 1934) là một võ sĩ Nhật Bản và là một quân nhân trong Hải quân Đế
Ngày **27 tháng 1** là ngày thứ 27 trong lịch Gregory. Còn 338 ngày trong năm (339 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *98 – Traianus kế vị cha nuôi Nerva làm hoàng đế
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
(1891–1945) là một Phó đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Ông là người chỉ huy các lực lượng hải quân Nhật phòng thủ bán đảo Oroku trong Trận