✨Psamtik I

Psamtik I

Wahibre Psamtikus I, được người Hy Lạp gọi là Psammeticus hay Psammetichuṣ(Tên La tinh hóa của tên gọi trong tiếng Hy Lạp cổ đại: Ψαμμήτιχος, dịch là Psammḗtikhos) trị vì từ 664-610 TCN, ông là vị vua đầu tiên trong số ba vị vua cùng tên của nhà Sais, hoặc vương triều thứ hai mươi sáu của Ai Cập. Những tham chiếu lịch sử đối với cái được người Hy Lạp gọi là Dodecarchy, một liên minh lỏng lẻo của mười hai vùng đất Ai Cập dựa trên các nome truyền thống, và sự trỗi dậy nắm quyền của Psamtik I để thiết lập nên nhà Sais đã được ghi lại trong tác phẩm Lịch sử của Herodotus, Quyển II: 151 -157. Từ các văn kiện hình nêm, người ta phát hiện ra rằng hai mươi lãnh chúa địa phương đã được Esarhaddon bổ nhiệm và được thừa nhận bởi Assurbanipal để nhằm cai trị Ai Cập.

Necho I, vua cha của Psamtik I là thủ lĩnh của nhóm các lãnh chúa này, nhưng dường như họ không thể nào dẫn dắt được người Ai Cập dưới sự cai trị của những người Assyria bị căm ghét chống lại người Nubia.

Necho I qua đời vào năm 664 TCN khi vị vua người Kush Tantamani thất bại trong việc cố gắng giành lấy kiểm soát Hạ Ai Cập từ đế quốc Assyria. Sau cái chết của vua cha, Psamtik đã thống nhất toàn bộ Ai Cập và giải phóng nó thoát khỏi sự kiểm soát của người Assyria trong mười năm đầu của triều đại ông.

Các chiến dịch quân sự

thumb|Tượng Psamtik thế kỷ thứ 7. Dòng chữ viết: "Con trai của Amphimeos, Pedon, đã đem tôi đến từ Ai Cập và tuyên dương như vậy: Psammetichos, vua của Ai Cập tặng ông một thành phố cho đức tính của ông và một vương miện vàng cho đức tính của ông".

Psamtik đã thống nhất đất nước Ai Cập vào năm trị vì thứ 9 của mình khi ông phái một hạm đội hải quân hùng mạnh tới Thebes trong tháng 3 năm 665 TCN và buộc Người vợ của thần Amun tại Thebes, Shepenupet II, phải chấp nhận người con gái Nitocris I của ông làm người kế thừa của bà ta theo như cái được gọi là tấm Bia đá nhận Con nuôi. Chiến thắng của Psamtik đã xóa bỏ những dấu tích cuối cùng thuộc về vương triều thứ 25 của người Nubia đối với Thượng Ai Cập dưới triều đại Tantamani và kể từ đó Thebes chấp nhận quyền lực của ông. Nitocris sẽ nắm giữ tước vị của bà trong suốt 70 năm từ năm 656 TCN cho đến khi bà mất vào năm 585 TCN. Sau đó, Psamtik I đã tiến hành chiến dịch một cách mạnh mẽ nhằm chống lại những lãnh chúa địa phương vốn chống đối sự thống nhất Ai Cập của ông. Một trong những chiến thắng của ông trước những kẻ cướp người Libya đã được đề cập đến trong một tấm bia đá năm 10 và năm thứ 11 từ ốc đảo Dakhla. Psamtik I đã giành lại được độc lập của Ai Cập từ đế quốc Assyria và khôi phục lại sự thịnh vượng của Ai Cập trong suốt 54 năm trị vì của mình. Vị Pharaon này còn tiến hành thiết lập mối quan hệ mật thiết với người Hy Lạp và cũng khuyến khích nhiều người định cư Hy Lạp thiết lập các thuộc địa ở Ai Cập và phục vụ trong quân đội Ai Cập. Đặc biệt, ông đã định cư một số người Hy Lạp tại Tahpanhes (Daphnae).

Khám phá nguồn gốc của ngôn ngữ

thumb|Bức tường Basalt mô tả Psamtik I ([[Bảo tàng Anh)]]

Nhà sử học Hy Lạp Herodotus đã truyền tải một giai thoại về Psamtik trong tập thứ hai thuộc tác phẩm Lịch sử của ông (2.2). Trong chuyến đi đến Ai Cập, Herodotos đã nghe kể về việc Psammetichus ("Psamṯik") tìm cách khám phá nguồn gốc của ngôn ngữ bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm với hai đứa trẻ. Ông đã giao hai đứa trẻ sơ sinh một người chăn cừu với mệnh lệnh rằng không ai được phép nói chuyện với chúng, ngoài ra người chăn cừu sẽ cho ăn và chăm sóc cho chúng trong khi lắng nghe để xác định những từ đầu tiên của chúng. Giả thuyết ở đây đó là từ đầu tiên được thốt ra sẽ là cội nguồn ngôn ngữ của tất cả các dân tộc. Khi một đứa trẻ la lên "βεκός" (bekós) và dang rộng hai tay, người chăn cừu kết luận rằng từ này là tiếng Phrygia bởi vì đó là cách phát âm của từ "bánh mì" trong tiếng Phrygia. Do đó, họ kết luận rằng người Phrygia xuất hiện trước người Ai Cập, và tiếng Phrygia là ngôn ngữ gốc của con người. Không có ghi chép nào khác còn tồn tại để xác minh câu chuyện này.

Vợ

Chính cung của Psamtik là Mehytenweskhet, con gái của Harsiese, tể tướng của miền Bắc và Tư tế tối cao của Atum ở Heliopolis. Psamtik và Mehytenweskhet là cha mẹ của Necho II, Merneith và Nitocris I.

Cha vợ của Psamtik - Harsiese được nói tới ở trên - đã kết hôn ba lần: ông ta có một người con gái tên là Naneferheres với Sheta, với Tanini và cuối cùng là với một người phụ nữ vô danh, bà ta đã sinh cho ông ta hai người con là Djedkare, vị tể tướng miền Nam và Mehytenweskhet. Harsiese là con trai của tể tướng Harkhebi, và có quan hệ họ hàng với hai Harsieses khác, cả hai đều là tể tướng và xuất thân từ gia tộc của vị Thị trưởng nổi tiếng ở Thebes là Montuemhat.

Phát hiện bức tượng

thumb|Các nhà khảo cổ khai quật thân bức tượng Vào ngày 9 tháng 3 năm 2017, các nhà khảo cổ học Ai Cập và Đức đã phát hiện một bức tượng khổng lồ có chiều cao 7,9 mét tại địa điểm Heliopolis ở Cairo. Được tạc từ đá quartzit, bức tượng được tìm thấy trong trạng thái rời rạc, với phần ngực, phần dưới cùng của đầu và vương miện nằm chìm dưới mực nước ngầm. Mặc dù ban đầu được cho là của Ramesses II (khu vực xưa kia là thành phố Heliopolis, ngày nay thuộc phía đông Cairo, Ai Cập), các báo cáo sau đó xác nhận rằng bức tượng này thực ra là của Psamtik I nhờ vào các chữ khắc được tìm thấy đã đề cập đến một trong những tên của vị pharaon này ở phần đế của bức tượng Một người phát ngôn lúc đó đã bình luận rằng "Nếu nó thuộc về vị vua này, thì đó là bức tượng lớn nhất của thời kỳ Hậu nguyên (giai đoạn năm 664 đến 332 trước Công nguyên) đã từng được khám phá ở Ai Cập". Đầu và thân mình dự kiến sẽ được chuyển đến Đại bảo tàng Ai Cập.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wahibre Psamtikus I**, được người Hy Lạp gọi là **Psammeticus** hay **Psammetichus**̣(Tên La tinh hóa của tên gọi trong tiếng Hy Lạp cổ đại: Ψαμμήτιχος, dịch là Psammḗtikhos) trị vì từ 664-610 TCN, ông là
**Nebetneferumut Nitocris I** (hay **Nitiqret**) là một công chúa và là một nữ tư tế thuộc Vương triều thứ 26 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà giữ tước hiệu này trong hơn 70
**Menkheperre Necho I** (tiếng Ai Cập: **Nekau**,) (? - 664 trước Công nguyên gần Memphis) là một vị vua ở thành phố Sais của Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua bản địa đầu
**Nefaarud I** hoặc **Nayfaurud I**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi trong tiếng Hy Lạp của ông là **Nepherites I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là người sáng lập
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ** được cho là đã được thực hiện ít nhất bốn lần trong lịch sử, là thí nghiệm cách ly trẻ sơ sinh khỏi việc sử dụng ngôn ngữ nói
**Neferkare** là một vị vua Ai Cập cổ đại của Tanis dưới thời vương triều thứ 26. ## Tiểu sử Ông có thể là người kế vị của vị vua được biết đến rõ hơn
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Thời kỳ Hậu nguyên của Ai Cập cổ đại** đề cập đến các triều đại cuối cùng của những nhà cai trị Ai Cập bản địa sau Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba trong Vương
**Amenirdis II** là một công chúa Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 25. ## Tiểu sử Amenirdis II là con gái của pharaon Taharqa. Bà đã được cô ruột là Shepenupet II (con
**Henutneferumut Irietre Shepenupet II** (hay **Shepenwepet II**) là một công chúa và là một Đại tư tế thuộc Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử Shepenupet II là
**Vương quốc Kush** hoặc **Kush** () là một vương quốc cổ đại ở châu Phi nằm trên khu vực hợp lưu của sông Nile Xanh, Nile Trắng và sông Atbara, ngày nay là cộng hòa
664 trưóc công nguyên là một năm trong Công lịch. ## Sự kiện * Tần Tuyên công,vua thứ 11 nước Tần qua đời. Con trai ông Tần Thành công lên ngôi. *Trận hải chiến đầu
nhỏ|Vị trí của Bubastis trên bản đồ **Bubastis** (tiếng Ả Rập: _Tell-Basta_; tiếng Ai Cập: _Per-Bast_; tiếng Copt: Ⲡⲟⲩⲃⲁⲥϯ _Poubasti_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούβαστις _Boubastis_ hay Βούβαστος _Boubastos_) là một thành phố của
430x430px|thumb|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Cuộc chiến chống [[Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant|ISIS tại trận Mosul; Cảnh sát Anh đứng gác trong Chiến dịch Temperer sau vụ đánh bom Manchester
**Bakenrenef** hoặc **Bakenranef** là một vị Tể tướng Ai Cập cổ đại ở phía Bắc (Hạ Ai Cập) dưới triều đại của Psamtik I (664 – 610 TCN) thuộc vương triều thứ 26. Giống như
**610 TCN** là một năm trong lịch La Mã. ## Sự kiện * Naucratis, một thành phố ở Ai Cập, được thành lập, cuối cùng trở thành một trong những thành phố nổi bật hơn
**655 TCN** là một năm trong lịch La Mã. ## Sự kiện ### Ai Cập * Vua Psamtik I hành quân vào Philistia (tây nam Levant) để đuổi theo lực lượng Assyria khi ông củng
**Amenhotep**, sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ 14 TCN, là một quan chức phục vụ dưới thời pharaon Amenhotep III, một vị vua thuộc Vương triều thứ 18 trong lịch sử Ai Cập cổ
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Cambyses II** (, _Kɑmboujie_,) (mất năm 522 trước Công nguyên), con của Cyrus Đại đế (trị vì: 559–530 trước Công nguyên), là vua của các vua của Đế quốc Achaemenes. Ông nội của Cambyses là
**Amyrtaeus** (hay **Amenirdisu**) của Sais là vị vua duy nhất thuộc vương triều thứ Hai mươi tám của Ai Cập và được cho là có liên quan đến gia đình hoàng tộc của vương triều